Sau hơn ba thập niên Bhutan đưa rachỉ số Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia, nhiều nước bắt đầu nhận ra phát triển không có nghĩa là hi sinh môi trường và hạnh phúc cộng đồng.
Marina rất vui khi Polly, đồng nghiệp của cô, ủng hộ ý tưởng quyên góp một khoản tiền để giúp đỡ Siriporn - cô bé 3 tuổi bị tàn tật nặng nề. Niềm hạnh phúc của Marina tăng gấp đôi sau khi cô chia sẻ câu chuyện này với một người bạn khác tên là Rachanee. Rachanee sau đó đã góp thêm 1.000 bạt. Ông của bé Siriporn, người chỉ kiếm được 5.600 bạt/tháng, bây giờ đã có thêm tiền để chăm sóc đứa cháu.
Mặc dù khoản tiền mà 3 người phụ nữ kia bỏ ra rất nhỏ, song họ có được niềm vui khi biết rằng họ đang giúp đỡ những người gặp khó khăn.
Đây chỉ là một ví dụ nhỏ về những hànhđộng mà qua đó một xã hội có thể xây dựng nên chỉ số Tổng Hạnh phúc Quốc gia (Gross National Happiness - GNH) của mình. Và bằng cách đo chỉ số GNH, một chính phủ có thể đánh giá xem mình có thể làm gì để đẩy mạnh hạnh phúc của dân chúng.
GNH được áp dụng lần đầu tiên vào năm 1972 ở Bhutan, một trong những nước nghèo nhất thế giới. Khi lên ngôi, Quốc vương Jigme Singye Wangchuk đã dùng GNH để đo sự phát triển xã hội về mặt hạnh phúc và chất lượng cuộc sống. Khái niệm chỉ số GNH của Bhutan dựa trên 4 tiêu chuẩn - tự túc về kinh tế, môi trường trong sạch, bảo tồn và phát huy văn hóa và chính quyền cai trị tốt dưới hình thức dân chủ.
Đến bây giờ, sau hơn ba thập niên Bhutan đưa ra chỉ số GNH, nhiều nước bắt đầu nhận ra phát triển không có nghĩa là phải hi sinh môi trường và hạnh phúc của cộngđồng.
Mối quan tâm về hạnh phúc ngày càng thu hút sự chú ý của nhiều nước phát triển. Adrian White, nhà tâm lý học về xã hội học phân tích tại trường Đại học Leicester (Anh) cho rằng các nhà chính trịngày càng quan tâm đến việc dùng các phép đo hạnh phúc làm chỉ số quốc gia song song với các phép đo về sự giàu có.
Một điều tra do đài BBC tiến hành năm 2006 phát hiện thấy 81% dân nước Anh cho rằng chính phủ nên tập trung vào việc làm cho người dân hạnh phúc hơn hơn là giàu có hơn. Ông White nhận định rằng các phân tích khác cũng chỉ ra rằng mức độ hạnh phúc của quốc gia liên quan chặt chẽ đến sức khỏe, tiếp đó mới đến sự giàu có và cung cấp giáo dục.
Các nước giàu càng ngày càng biết rằng chẳng ai đem tiền ra mua được hạnh phúc. Các nhà kinh tế tiếng tăm của Nhật Bảnđã tuyên bố trong một hội thảo là nước Nhật phải bớt quan tâm đến mức tăng trưởng GDP để học hỏi quan niệm hạnh phúc của Bhutan.
Và gần đây Thái Lan đang học tập bước đi của Bhutan, “rục rịch” dịch chuyển nền kinh tế dựa vào chỉ số GNH. Quốc vương Thái Lan vẫn nói rằng "là một con hổ không quan trọng - những gì quan trọng là có một nền kinh tế có thể cung cấp đủ để ăn và sống".
Mặc dù Thái Lan vẫn tự nhận mình là "Mảnh đất của những nụ cười", song một nghiên cứu quốc tế trong năm 2006 cho thấy đất nước chùa Tháp không hạnh phúc bằng những nước láng giềng nhưViệt Nam, Philippines và Indonesia. Còn theo nghiên cứu được công bố vào tháng 7-2006 của Công ty Quĩ kinh tế mới (NEF) tại Anh, Việt Nam là đất nước hạnh phúc nhất châu Á, Thái Lan chỉ hạnh phúc hơn Malaysia, Ấn Độ, Pakistan và Singapore.
Ban Phát triển Xã hội và Kinh tế Quốc giaThái Lan (NESDB) đã chuyển hướng tập trung của mình từ tăng trưởng kinh tếnhanh chóng sang phát triển bền vững. NESDB cũng đang phát triển những chỉ sốmới để đo mức hạnh phúc của dân chúng Thái Lan.
Trong lần trả lời phỏng vấn hãng AFP năm 2006, ông Kitisak Sinthubanich, Phó Tổng thư ký NESDB, nhấn mạnh rằng chỉ sốGDP chỉ phản ánh về mặt kinh tế và vẫn chưa đủ để đo độ hạnh phúc của dân Thái. Do vậy, Thái Lan muốn tìm cách nhận ra những “hàng hóa chung” như chất lượng cuộc sống và độ thỏa mãn trong cuộc sống.
Vào năm ngoái, Mạng lưới Chỉ số Hạnh phúcđã được lập ra ở Thái Lan để khai thác cách thức đo “tổng hạnh phúc quốc nội”.Nhà nghiên cứu Noppadon Kannikar, thành viên sáng lập Mạng lưới Chỉ số Hạnh phúc Thái Lan cho rằng không bao giờ là quá muộn để sử dụng chỉ số GNH song song với chỉ số GDP để đo độ hạnh phúc của dân chúng nhằm duy trì sự cân bằng trong phát triển nền kinh tế quốc gia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét