18 thg 12, 2012

Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Chú Hành Pháp

http://tuvienhuequang.com/images/stories/demo/Bo-tat/quantheam.jpg

Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Chú Hành Pháp
Tôn giả Tứ Minh Tri Lễ[1], biên tập nghi quỹ.
Luật sư Hoa Sơn Độc Thể [2], sửa văn chỉnh lời.
Sa môn Gia Hòa Tịch Xiêm [3], thêm tranh khắc bản.
Việt dịch: Quảng Minh.
Nam mô đại bi Quan ThếÂm bồ tát. (3 lần)
Nhất thiết cung kính: Một lòng kính lạy Tam bảo thường trú khắp cả mười phương. (1 lạy)
(Đốt hương, rải hoa, vị chủ lễ xướng:)
Tất cả đại chúng, xin mời quỳ xuống, nghiêm cầm hương hoa, nhưpháp cúng dường.
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Vô biên quốc độ Phật
Vô lượng hương trang nghiêm
Đầy đủ đạo bồ tát
Thành tựu hương Như lai.
(Quán tưởng:)
Con dâng hương hoa khắp mười phương
Làm đài ánh sáng rất vi diệu
Các âm nhạc, hương báu cõi trời
Các món ăn, y báu cõi trời
Không thể nghĩ bàn pháp trần mầu
Mỗi một trần thành tất cả trần
Mỗi một trần thành tất cả pháp
Chuyển hóa vô ngại, trang nghiêm nhau
Khắp cả mười phương trước Tam bảo
Đều có thân con hiến cúng dường
Mỗi cúng phẩm khắp cảpháp giới
Thế tôn và con không ngại nhau
Cùng tận vị lai làm việc Phật
Khắp xông pháp giới các chúng sanh
Được xông đều phát tâm bồ đề
Cùng vào vô sanh, chứng trí Phật.
(Cúng dường xong, tất cả cung kính, vị chủ lễxướng:)
Kính lạy đời quá khứ Như lai Chánh Pháp Minh, chính là đời hiện tại bồ tát Quán Thế Âm, đấng thành công đức diệu, đầy đủ lòng đại bi, nơi trong một thân tâm hiện ra ngàn tay mắt, soi thấy khắp pháp giới, hộ trì các chúng sanh, phát tâm đạo rộng lớn, dạy trì chú Viên mãn, mãi rời xa đường ác, được sanh trước chư Phật. Những tội nặng vô gián, cùng bịnh ác quấy thân, khó nỗi cứu vớt được cũng đều khiến tiêu trừ. Các tam muội, biện tài, những mong cầu hiện tại đều cho được toại nguyện. Quyết định không nghi ngờ thì mau được ba thừa, sớm lên quả vị Phật. Sức oai thần côngđức, khen ngợi sao cho cùng, cho nên con một lòng, quy mạng và đảnh lễ. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đức Phật bổn sư là Thích Ca Mâu Ni Thế tôn. (1 lạy)
(Quán tưởng:)
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thểnghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Thích Ca Như lai hào quang sáng ngời
Trước Thế tôn thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
Một lòng kính lạy đức Phật ở thế giới Cực lạc phương Tây là A DiĐà Thế tôn. (1 lạy)
(Quán tưởng:)
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thểnghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
A Di Đà Phật hào quang sáng ngời
Trước Thế tôn thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
Một lòng kính lạy đức phật ở đời quá khứ trong vô lượng ức kiếp là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Thế tôn. (1 lạy)
Một lòng kính lạy chín mươi chín ức hằng sa chư Phật Thế tôn ở đời quá khứ. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đức phật ở đời quá khứ trong vô lượng kiếp là Chánh Pháp Minh Thế tôn. (1 lạy)
Một lòng kính lạy tất cả chư Phật Thế tôn khắp cả mười phương. (1 lạy)
Một lòng kính lạy một ngàn đức Phật ở Hiền kiếp, ba đời tất cả chưPhật Thế tôn. (1 lạy)
Một lòng kính lạy chương cú thần diệu tên là Quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni. (xưng lễ 3 lần)
(Quán tưởng:)
Chân không pháp tánh như hư không
Pháp bảo thường trú khó nghĩ bàn
Thân con ảnh hiện trước pháp bảo
Một lòng như pháp quy mạng lễ.
Một lòng kính lạy vị thuyết ra các đà la ni là đại bồ tát Quán ThếÂm và mười phương ba đời tất cả tôn Pháp. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đại bồ tát Quán Thế Âm, bậc tự tại, đại từ đại bi, ngàn tay ngàn mắt. (xưng lễ 3 lần)
(Quán tưởng:)
Bồ tát, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thểnghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Bồ tát đại bi hào quang sáng ngời
Trước bồ tát thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
Một lòng kính lạy đạibồ tát Đại Thế Chí. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đại bồ tát Tổng Trì Vương. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đại bồ tát Nhật Quang, đại bồ tát Nguyệt Quang. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đạibồ tát Bảo Vương, đại bồtát Dược Vương, đại bồ tát Dược Thượng. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đạibồ tát Hoa Nghiêm, đại bồ tát Đại Trang Nghiêm, đại bồ tát Bảo Tạng. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đạibồ tát Đức Tạng, đại bồtát Kim Cang Tạng, đại bồ tát Hư Không Tạng. (1 lạy) [4]
(Lễ xong, đứng lên chắp tay tụng:)
Kinh nói: Nếu có vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, hay đồng nam, đồng nữ nào, muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau biết tất cả pháp.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm được con mắt trí tuệ.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau độ tất cả chúng sanh.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm được phương tiện tốt.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau ngồi thuyền bát nhã.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm vượt biển cả khổ đau.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau được các pháp giới định.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm lên núi cao niết bàn.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau về ngôi nhà vô vi.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm đồng thân thể pháp tánh.
Nguyện con đến núiđao thì núi đao tự gãy đỗ.
Nguyện con đến vạc sôi thì vạc sôi tự khô cạn.
Nguyện con đến địa ngục thì địa ngục tự hủy diệt.
Nguyện con đến ngạ quỷthì ngạ quỷ tự no đủ.
Nguyện con đến tu la thì tu la tự hiền lành.
Nguyện con đến súc sanh thì súc sanh tự khôn ngoan. [5]
(Hành giả quán tưởng thân mình đang đối trước chư Phật và bồ tát, xưng niệm hồng danh, tha thiết thành tâm như đang bị thiêu đốt, đắm chìm mà cầu xin cứu giúp)
Nam mô Quán Thế Âm bồtát. (21 lần đến 49 lần, 1 lạy)
Nam mô A Di Đà Phật. (21 lần đến 49 lần, 1 lạy)
(Tụng tiếp:)
Bồ tát Quán Thế Âm thưa với đức Phật: Bạch đức Thế tôn, nếu các chúng sanh tụng trì thần chú đại bi mà đọa ba đường ác thì con thề không thành chánh giác. Người tụng trì thần chú đại bi nếu không sanh về quốc độ của chư Phật thì con thề không thành chánh giác. Người tụng trì thần chú đại bi nếu nơi tâm không đắc vô lượng tam muội biện tài thì con thề không thành chánh giác. Người tụng trì thần chú đại bi tâm, sống trong đời hiện tại, có những mong cầu mà không có kết quả toại nguyện thì thần chú này không được gọi là đà la ni đại bi tâm
Bồ tát Quán Thế Âm nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, đối với các chúng sanh khởi tâm đại bi, nở mặt mỉm cười, liền nói chương cú thần diệu tên là Quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni:
1. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
(Đây là bản thân của bồ tát Quán Thế Âm, phải khởi đại bi, dụng tâm đọc tụng, đừng cao giọng, tâm ý nóng vội)
2. Nam mô a rị da.
(Đây là bản thân của bồ tát Như Ý Luân, đến đây phải gìn giữ tâm ý)
3. Bà lô yết đế thước bát ra da.
(Đây là bản thân của bồ tát Trì Bát Quán Thế Âm. Nếu muốn lấy xương cốt xá lợi, thì tụng chú này, quán tưởng bồ tát đang cầm bát)
4. Bồ đề tát đỏa bà da.
(Đây là bồ tát Bất Không Quyến Sách, nắm giữ đại binh)
5. Ma ha tát đỏa bà da.
(Đây là chủng tử của bồ tát, tức bản thân của người tụng chú)
6. Ma ha ca lô ni ca da.
(Đây là bản thân của bồ tát Mã Minh, tay cầm chày Kim Cang)
7. Án.
(Chữ án này là các quỷthần chắp tay lắng nghe tụng chú)
8. Tát bàn ra phạt duệ.
(Đây là bản thân của bốn đại thiên vương, hàng phục ma quân)
9. Số đát na đát tả.
(Đây là danh tự của bộlạc quỷ thần thuộc bốn đại thiên vương)
10. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da.
(Đây là bản thân của bồ tát Long Thọ, cần phải dụng tâm mà tụng câu này, chớ có qua loa mà đánh mất tâm tánh bồ tát)
11.Bà lô cát đế thất phật ra lăng đà bà.
(Đây là viên mãn báo thân Lô Xá Na Phật)
12. Nam mô na ra cẩn trì.
(Đây là bản thân của thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật, cần phải dụng tâm)
13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế.
(Đây là thần vương Dương Đầu, cùng với các quyến thuộc của thiên ma)
14. Tát bà a tha đậu du bằng.
(Đây là bồ tát Cam Lộ,cũng là bộ lạc của bồ tát Quán Thế Âm dùng làm quyến thuộc)
15. A thệ dựng.
(Đây là thiên vương dạxoa Phi Đằng, đi tuần khắp bốn phương để xem xét những điều thị phi)
16. Tát bà tát đá (na ma bà tát đa [6] ) na ma bà dà.
(Đây là thần vương Bà Gia Đế, thân hình cao lớn, da đen, lấy da báo làm quần, tay cầm cây đao sắt)
17. Ma phạt đặc đậu.
(Đây là bản thân của bồ tát Quân Trà Lợi, cầm bánh xe sắt và sợi dây, có ba con mắt)
18. Đát điệt tha.
(Đây là lời nói sắc bén)
19. Án, a bà lô hê.
(Đây là bản thân của bồ tát Quán Thế Âm, chắp tay ngang ngực)
20. Lô ca đế.
(Đây là bản thân của thiên vương Đại Phạn, bộ lạc của thần tiên)
21. Ca ra đế.
(Đây là đế thần có thân dài lớn, màu đen)
22. Di hê rị.
(Đây là thiên thần Ma Hê Thủ La ở cõi trời Tam thập tam thiên thống lãnh thiên binh, thân màu xanh)
23. Ma ha bồ đề tát đỏa.
(Đây là chân tâm, cũng có nghĩa là tâm không tạp loạn, nên gọi là tát đỏa)
24. Tát bà tát bà.
(Đây là bồ tát Hương Tích nắm giữ quỷ binh của năm phương để làm tùy tùng, việc đó không thể nghĩbàn)
25. Ma ra ma ra.
(Đây là bồ tát dùng lời nói trị phạt cũng tức là cứu giúp chúng sanh)
26. Ma hê ma hê rị đà dựng.
(Giống như câu trên)
27. Câu lô câu lô yết mông.
(Đây là bồ tát Không Thân nắm giữ tướng quân Thiên Đại thống lãnh hai mươi muôn ức thiên binh)
28. Độ lô độ lô phạt xà da đế.
(Đây là bồ tát Nghiêm Tuấn nắm giữ Khổng Tước Vương cùng binh chúng thô bạo)
29. Ma ha phạt xà da đế.
(Giống như câu trên)
30. Đà ra đà ra.
(Đây là bồ tát Quán Thế Âm, thị hiện cái thân đại trượng phu)
31. Địa rị ni.
(Đây là Sư Tử Vương, chứng nghiệm và che chở người đọc tụng)
32. Thất phật ra da.
(Đây là bồ tát Tích Lịch, hàng phục các loài ma và quyến thuộc của chúng)
33. Giá ra giá ra.
(Đây là bản thân của bồ tát Tồi Toái, tay cầm bánh xe vàng)
34. Mạ mạ.
(Họ tên …. thọ trì)
Phạt ma ra.
(Đây là bản thân củaĐại Hàng Ma Kim Cang, tay cầm bánh xe vàng)
35. Mục đế lệ.
(Đây là chư Phật chắp tay nghe tụng chân ngôn)
36. Y hê y hê.
(Đây là thiên vương Ma Hê Thủ La)
37. Thất na thất na.
(Giống như câu trên)
38. A ra sâm phật ra xá lợi.
(Đây là bồ tát Quán Thế Âm, tay cầm cái bàng bài, cây nỏ, cây cung và mũi tên)
39. Phạt sa phạt sâm.
(Giống như câu trên)
40. Phật ra xá da.
(Đây là bản thân củađức Phật A Di Đà, bổn sư của bồ tát Quán Thế Âm)
41. Hô lô hô lô ma ra.
(Đây là tám bộ quỷ thần vương)
42. Hô lô hô lô hê rị.
(Giống như câu trên)
43. Sa ra sa ra.
(Thời kỳ dữ dội đầy cảnăm thứ vẩn đục)
44. Tất rị tất rị.
(Đây là bồ tát Quán Thế Âm làm lợi ích tất cả chúng sanh, việc đó không thể nghĩ bàn)
45. Tô rô tô rô.
(Đây là tiếng lá cây rơi rụng ở cõi nước của chư Phật)
46. Bồ đề dạ bồ đề dạ.
(Đây là bồ tát Quán ThếÂm kết duyên với chúng sanh)
47. Bồ đà dạ bồ đà dạ.
(Đây là bản thân của tôn giả A Nan)
48. Di đế rị dạ.
(Đây là bồ tát Đại Xa, tay cầm cây đao vàng)
49. Na ra cẩn trì.
(Đây là bồ tát Long Thọ, tay cầm cây đao vàng)
50. Địa rị sắc ni na.
(Đây là bồ tát Bảo Tràng, tay cầm cây chĩa ba sắt)
51. Ba dạ ma na.
(Đây là bồ tát Bảo Kim Quang Tràng, tay cầm cây xử bạt chiết la)
52. Sa bà ha.
53. Tất đà dạ.
(Đây là thông đạt tất cả pháp môn)
54. Sa bà ha.
55. Ma ha tất đà dạ.
(Đây là bồ tát Phóng Quang, tay cầm phan đỏ)
56. Sa bà ha.
57. Tất đà du nghệ.
(Đây là chư thiên, bồtát thảy đều vân tập, tay cầm cây đao vàng)
58. Thất bàn ra dạ.
(Đây là an tức hương)
59. Sa bà ha.
60. Na ra cẩn trì.
(Đây là bản thân của bồ tát Sơn Hải Huệ, tay cầm cây kiếm vàng)
61. Sa bà ha.
62. Ma ra na ra.
(Đây là bồ tát Bảo Ấn Vương, tay cầm cây búa vàng)
63. Sa bà ha.
64. Tất ra tăng a mục khư da.
(Đây là bản thân của bồ tát Dược Vương, chữa trị các bệnh)
65. Sa bà ha.
66. Sa bà ma ha a tất đà dạ.
(Đây là bản thân của bồ tát Dược Thượng, chữa trị các bệnh)
67. Sa bà ha.
68. Giả cát ra a tất đà dạ.
69. Sa bà ha.
70. Ba đà ma yết tất đà dạ.
71. Sa bà ha.
72. Na ra cẩn trì bàn già ra dạ.
73. Sa bà ha.
74. Ma bà lị thắng yết ra dạ.
75. Sa bà ha.
76. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
77. Nam mô a rị da.
78. Bà lô cát đế.
79. Thước bàn ra dạ.
80. Sa bà ha.
81. Án tất điện đô.
82. Mạn đá ra.
83. Bạt đà da.
84. Sa bà ha. [7]

Bồ tát Quán Thế Âm nói chú này xong thì đại địa chấn động đủ cả sáu cách, chư thiên mưa xuống hoa báu đầy dẫy, mười phương chưPhật thảy đều hoan hỷ. Thiên ma, ngoại đạo sợ hãi, lông tóc dựng đứng. Tất cảchúng hội đều được quả chứng, có vị đắc quả tu đà hoàn, có vị đắc quả tư đà hàm, có vị đắc quả a na hàm, có vị đắc quả a la hán, có vị chứng đắc địa thứ nhất, địa thứ hai, địa thứ ba, địa thứtư, địa thứ năm, cho đến địa thứ mười. Vô lượng chúng sanh phát tâm bồ đề. (1 lạy)
(Niệm thầm:)
Đệ tử … cùng pháp giới chúng sanh, vô thỉthường tạo tội chướng sâu nặng từ ba nghiệp và sáu căn, là do không gặp được chưPhật nên không biết lối ra, chỉ thuận theo sanh tử nên không biết lý mầu. Nay con biết được thì cũng đã cùng chúng sanh tạo ra không biết bao nhiêu tội chướng sâu nặng rồi. Con đối trước mười phương chư Phật, trước đại bồ tát Quán Thế Âm, khắp vì chúng sanh mà quy mạng sám hối, nguyện xin gia hộkhiến cho tội chướng được tiêu diệt cả.
(Quỳ xuống, xướng:)
Đệ tử chúng con khắp vì bốn ơn ba cõi và pháp giới chúng sanh, nguyện đoạn trừ cả ba thứ chướng ngại [8], nên quy mạng sám hối.
(Xướng xong, năm vóc sát đất, nhất tâm tưởng niệm:)
Đệ tử … cùng pháp giới chúng sanh, vô thỉ đến giờ, do ái và kiến [9]mà trong chấp nhân ngã, ngoài vì bạn xấu, nên không tùy hỷ ai cả, dầu là mộtđiều thiện bằng tơ tóc, chỉ biết bùng dậy tội lỗi bằng cả ba nghiệp. Việc tuy không rộng mà ác ý bủa khắp. Ngày đêm liên tục, không có gián đoạn. Che giấu lỗi lầm, không muốn ai hay. Không sợ đường dữ, không hổ không thẹn. Bài bác cho rằng không có nhân quả. Vì vậy ngày nay, tin tưởng sâu xa nguyên lý nhân quả, phát sanh hổ thẹn hệ trọng, sợ hãi to lớn mà bộc bạch sám hối. Đoạn tâm liên tục mà phát tâm bồ đề. Đoạn ác tu thiện, siêng năng thúc giục cảthân miệng ý. Đổi bỏ tánh xấu nặng nềngày xưa mà tùy hỷ với người phàm cũng như bậc thánh, dầu một điều thiện bằng tơ tóc mà thôi. Nghĩ nhớ chư Phật mười phương có phước tuệ to lớn, có thể cứu vớt con, đem con ra khỏi biển hai chết [10] mà đặt lên trên bờ ba đức[11]. Từ vô thỉ đến nay, con không biết các pháp bản tính vắng lặng, nên đã gây nhiều điều ác, nay biết được các pháp vắng lặng mà cầu bồ đề, muốn độ chúng sanh mà làm nhiều việc thiện, dứt hết điều ác, nguyện xin đức Quán Thế Âm từ bi nhiếp thọ.
(Tưởng niệm xong, quỳxướng:)
Chí tâm sám hối: Đệ tử ... cùng pháp giới chúng sanh, hiện tiền một tâm, vẫn đủ ngàn pháp, đều có sức thần, cùng với trí sáng, trên đồng tâm chư Phật, dưới bằng tánh muôn loài. Do bởi u mê che ánh sáng kia, nên đối cảnh hôn mê, khởi lòng chấp nhiễm, nơi pháp tánh bình đẳng mà lại nhân ngã bỉthử. Lại do ái kiến làm gốc, thân miệng làm duyên, trong nẻo luân hồi, gây nênđủ tội: mười ác, năm nghịch, khinh chê người khác, hủy báng chánh pháp, phá trai, phạm giới, phá tháp, hủy chùa, lấy cắp tài vật của tăng bốn phương, làm bẩn phạn hạnh thanh tịnh, xâm tổn tài vật, ẩm thực của thường trụ, thì dẫu cho có ngàn Phật xuất thế cũng khó sám hối. Những tội như thế,không lường không ngằn, khi bỏ báo thân, phải đọa ba đường ác, chịu vô lượng khổ sở. Lại trong đời này, phiền não thiêu đốt, tật bịnh vây quanh, duyên ngoài bức bách, chướng ngăn đạo pháp, khó nỗi tiến tu. May gặp thần chú Viên mãn đại bi, có thể mau trừ những tội như thế, cho nên nay con, hết lòng trì tụng. Con nguyện nương về bồtát Quán Thế Âm, các đấng đạo sư trong mười phương, phát tâm bồ đề, tu hạnh chân ngôn, cùng với chúng sanh, tỏ bày các tội, cầu xin sám hối, nguyện đều tiêu trừ.
Nguyện đức đại bi Quán Thế Âm đại bồ tát nắm giữ con bằng ngàn tay, soi thấy con bằng ngàn mắt, làm cho con bặt hết duyên chướng trong ngoài, trở về vắng lặng, hạnh nguyện của con và người cùng được viên thành, mở ra bản tánh thấy biết, dẹp trừ ngoại ma, ba nghiệp siêng cần, tu nhân tịnh độ.
Xin nguyện cho con, khi bỏ thân này, không vàođường khác, quyết được sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, đích thân cúng dường đức đại bi Quán Thế Âm, đủ các tổng trì, rộng độ quần sanh, đều thoát khổ luân, đều thành Phật đạo.
(Đứng lên, xướng:)
Đệ tử sám hối phát nguyện rồi, xin quy mạngđảnh lễ Tam Bảo. (1 lạy)
Nam mô Thập phương Phật.
Nam mô Thập phương Pháp.
Nam mô Thập phương Tăng.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Phật.
Nam mô Quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đại đà la ni.
Nam Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát.
Nam mô Đại Thế Chí bồ tát.
Nam mô Tổng Trì Vương bồ tát.
Tự quy y Phật
Xin nguyện chúng sanh
Thể theo đạo cả
Phát lòng vô thượng.
Tự quy y Pháp
Xin nguyện chúng sanh
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng
Xin nguyện chúng sanh
Quản lý đại chúng
Hết thảy không ngại.
Kính chào thánh chúng.

[1] Tôn giả Tứ Minh (960-1028): Cao tăng Trung quốc, thuộc tông Thiên Thai, sống vào đời Tống, tức pháp sư Tri Lễ. Vì sư trụ trì ở núi TứMinh, hoằng dương giáo nghĩa Thiên Thai, là nhân vật trung tâm của phái Gia Sơn thuộc tông Thiên Thai nên người đời gọi sư là Tứ Minh Tri Lễ hoặc tôn xưng là TứMinh tôn giả. Thiên thủ thiên nhãn đại bi tâm chú hành pháp nằm trong Tục tạng kinh, số 1480. Nghi quỹ sám pháp này được tôn giả soạn tập, căn cứ vào Thiên ThủThiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh (ĐTK 1060), do ngài Già Phạm Đạt Ma dịch và phần chú đại bi thì lấy từThiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni (ĐTK 1064), do ngài Bất Không dịch, nhưng thêm 5 âm Na ma bà tát đa (那摩婆萨多) ở câu 16.
[2] Luật sư Độc Thể(1601-1679): Ngài là vị tổ thứ hai của phái Thiên Hoa luật tông cuối đời Minh, người Điền nam, họ Hứa, tự là Thiệu Như, sau đổi là Kiến Nguyệt. Thuở nhỏ giỏi hội họa, nhất là vẽ tượng Quán Âm đại Sĩ. Năm 14 tuổi cha mẹ qua đời, bác nuôi dưỡng ăn học. Chợt một hôm nhận ra cảnh vô thường trong cuộc sống, ngài bỏnhà đi làm đạo sĩ Lão giáo, rồi sau đó đến học kinh Hoa Nghiêm với vị lão tăng tên là Xích Nham ở Kiến Xuyên. Đọc phẩm Thế chúa diệu nghiêm, ngài bổng tĩnh ngộ bèn xuất gia với Lượng Như pháp sư, ởnúi Hồng Bảo. Thọ giới cụ túc với Tam Muội Tịch Quang luật sư và trở thành bậc thượng toạ, thay thế thầy giảng kinh Phạm Võng. Đọc qua luật Tứ Phần, chỗ nào bế tắc thì hướng về Phật cầu nghĩa, tịnh tọa một lát thì thông suốt. Ngài 8 lần chủ tọađạo tràng, hơn 70 lần khai giới đàn. Lúc sắp nhập tịch, Tịch Quang phó chúc tử y và các bộ giới bản, ngài được nối pháp Tịch Quang. Từ đó về sau ngài cứ y luật mà tổ chức giới đàn kiết hạ an cư hết sức nghiêm túc và gây được giá trị cảm xúc lợi lạc lớn. Ngài là tác giả bộ Tỳ ni nhật dụng thiết yếu.
[3] Sa môn Gia Hòa Tịch Xiêm: Cao tăng đời nhà Thanh. Năm Khang Hy thứ 60 (1795), ngài Tịch Xiêm đứng ra coi khắc bản in Đại bi sám pháp. Đến năm Gia Khánh thứ 24 (1819), ngài duyệt lại bản in, biên tập lại một lần nữa. Hiện tại bản Đại bi sám pháp được ghi trong Tục tạng kinh là bản của ngài Tịch Xiêm biên tập. Bản Đại bi sám pháp do Phật giáo Hương Cảng phát hành thì đã có thêm một ít phần, và hòa thượng Thích Thiền Tâm có lẽ dựa vào bản này mà lược soạn Đại bi sám pháp.
[4] Bản Đại bi sám pháp của Phật giáo Hương Cảng phát hành có thêm:
Một lòng kính lạy đại bồ tát Di Lặc, đại bồ tát Phổ Hiền, đại bồtát Văn Thù Sư Lợi. (1 lạy)
Một lòng kính lạy mười phương ba đời tất cả bồ tát. (1 lạy)
Một lòng kính lạy tôn giả Ma ha Ca Diếp, vô lượng vô số đại thanh văn tăng. (1 lạy)
Một lòng kính lạy vị xiển dương Thiên Thai giáo quán tông là tôn giảTứ Minh, đại sư Pháp Trí. (1 lạy)
Một lòng đại vì Thiện Tra Phạm Ma, thiên tửCù Bà Già, bốn vương hộ thế, tám bộ trời rồng, thiên nữ Đồng Mục, thần hư không, thần sông biển, thần nguồn suối, thần sông hồ, thần cỏ thuốc, thần cây rừng, thần nhà cửa, thần nước, thần lửa, thần gió, thần đất, thần núi, thần đá, thần cungđiện đều thủ hộ người trì chú, tất cả trời rồng, quỷ thần và các quyến thuộc, xin thay thế mà đảnh lễ Tam Bảo. (1 lạy)
[5] Nghi thức trì tụng chú đại bi giản lược, trước nhất là xướng “đại bi khải thỉnh”, như sau:
Kính bạch vầng trăng Quán Tự Tại
Quảng đại viên mãn thân tử kim
Ngàn tay thường hiện nơi thế gian
Ngàn mắt ánh sáng thường soi chiếu
Một ngàn hai trăm chân ngôn ấn
Làm đầy chúng sanh những nguyện cầu
Mặt lặng yên, ba mắt trang nghiêm
Đảnh đội Di Đà, cầm bảo khí
Khen nói chân ngôn, pháp vi diệu
Thọ trì sẽ chứng bồ đề Phật
Biện tài vô ngại hóa trời người
Trong chúng bồ tát làm thượng thủ
Tạm nghe trừ diệt trần sa nghiệp
Tụng niệm thêm lớn nhân thành Phật
Đại bi nguyện lực không thể nghĩ
Cho nên nay con niệm, tán thán.
Sau đó, phát nguyện theo đại sĩ Quán Thế Âm ở trên, niệm hồng danh Quán Thế Âm bồ tát và A Di Đà Phật, tụng chú đại bi, cuối cùng là hồi hướng công đức.
[6] Năm âm này, rõ ràng là được thêm vào, vì toàn bộ chú đại bi ở đây là trích từ chú đại bi của kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm BồTát Đại Bi Tâm Đà La Ni (ĐTK số 1064), không có 5 âm này. Phần kinh văn thì trích trong Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh (ĐTK số 1060).
[7] Tụng 5 biến, như kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán ThếÂm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni ghi: “Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử.”
[8] Phiền não, vọng nghiệp, khổ báo (hoặc, nghiệp, khổ).
[9] Ái là lầm sự,như tham lam, sân hận … Kiến là lầm lý, như ngã kiến, tà kiến …
[10] Biển hai chết: sanh tử phân đoạn và sanh tử biến dịch.
[11] Ba đức: pháp thân đức, bát nhã đức và giải thoát đức.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét