19 thg 12, 2012

OAI LINH CỦA TÂM KINH VÀ ĐỨC QUÁN ÂM , VỊ THUYẾT RA TÂM KINH

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/9/9a/Xuanzang_w.jpg/290px-Xuanzang_w.jpg

... Chừng canh ba, pháp sư lén vượt được cửa ải Ngọc môn, mừng lắm, để đồ xuống, nằm ngủ cách người Hồ hơn 50 bước. Mới nằm một lát, người Hồ rút dao đứng dậy,đi nhẹ về phía pháp sư. Đi chưa được mươi bước thì lùi lại, không biết ý gì. Pháp sư ngờ người Hồ có lòng khác, nên ngồi dậy niệm đức Quan âm. Thấy vậy, người Hồ về chỗ nằm ngủ. Trời gần sáng, pháp sư gọi dậy, lấy nước, lót lòng, rồi sắp đi thì người Hồ nói, đường đi nguy hiểm, xa xôi, nước không, cỏ chẳng có, chỉ nơi 5 đồn canh mới có nước. Đồn nào cũng phải ban đêm lén đến mới lấy được nước, và có nước mới qua được sa mạc này. Nhưng bị phát giác thì chết. Đệ tửnghĩ chẳng bằng quay về thì hơn. Pháp sư không chịu nên người Hồ miễn cưỡng màđi. Được vài dặm, đứng lại, nói, đệ tử không thể đi được. Đệ tử còn gánh nặng gia đình, phép vua lại không thể vi phạm. Pháp sư biết ý, bảo cứ về. Người Hồnói, chắc chắn pháp sư không qua khỏi, bị bắt rồi khai đến con thì sao? Pháp sưnói, thân này bị xả nhỏ ra tôi cũng không khai đến anh. Pháp sư thề thốt nặng lời, người Hồ mới yên bụng lui về, sau khi giao lại cho pháp sư một con ngựa.
Vậy là pháp sư đơn độc đi vào sa mạc. Chỉ nhìn xương người hay phân ngựa mà đi. Một lát bỗng có mấy trăm quân binh đầy cả trước mắt, thoáng đi thoáng ngừng, người ngựa cờ xí biến ảo liền liền, nhìn xa rất rõ, đến gần lại tan. Pháp sư mới nhìn nghĩ là giặc cướp, đến gần mới biết quái dị. Nhưng nghe trong không gian có tiếng nói, bảo cứ đi, đừng sợ. Đi được 80 dặm thì thấy đồn canh thứ nhất. Sợlính canh nhìn thấy nên pháp sư núp vào hố cát, đến đêm mới đi. Khi đến phía tâyđồn canh, thấy nước, pháp sư xuống uống, rửa tay, và sắp sửa lấy nước thì một mũi tên bay vút đến, xuýt trúng đầu gối. Thoáng cái lại có một mũi nữa. Biết đã bị phát giác, pháp sư kêu lớn, xin đừng bắn, tôi là tăng sĩ. Rồi dắt ngựa đi lại đồn canh. Binh sĩ điệu vào gặp hiệu úy Vương Tường. Nhưng chính nhờ viên hiệu úy này giúp đỡ mà pháp sư đến được đồn canh thứ tư. Viên hiệu úy ở đây nghe có lời Vương Tường nên hoan hỷ, mời ngủ lại, lại biếu túi da lớn để dựng nước và biếu lúa mạch cho ngựa ăn, tiễn pháp sư mà dặn đừng đi về phía đồn canh thứ năm. Viên hiệu úy ở đó có thể hại ngài. Từ đây đi cỡ trăm dặm thì có suối Dã mã, ngài hãy lấy thêm nước ở đó.
Vậy là pháp sư đi vào đại sa mạc Mông cổ. Đại sa mạc này dài hơn 800 dặm. Trên không có chim bay, dưới không có thú chạy. Nước không có, cỏ cũng không. Bấy giờ pháp sư một mình một ngựa, chỉ niệm đức Quan âm và bài Tâm kinh mà đi. Hồi trước, khi còn ở đất Thục, pháp sư gặp một bịnh nhân, ghẻ lở hôi thối dơ bẩn, áo quần rách rưới dơ dáy. Pháp sư đưa về chùa, tặng quần áo, biếu thực phí. Bịnh nhân cảm kích, truyền thọ bài kinh ấy cho pháp sư. Nhân đó pháp sư đã thường trì tụng. Bây giờ, khi vào đại sa mạc, gặp bao nhiêu hiện tượng quái dị vây bọc trước sau, pháp sư niệm bài kinh này thì tan biến liền. Bao nhiêu nguy khốn mà pháp sư phải gặp, thật do bài kinh này cứu độ.
Pháp sư đi cỡ trăm dặm thì lạc đường, tìm suối Dã mã không thấy. Lấy túi nước xuốngđể uống thì lỡ tay đổ cả. Vật độ mạng trên đường ngàn dặm, thoáng cái sạch hết! Vậy mà còn lạc đường đến nỗi quanh quẩn không biết nên đi theo ngã nào. Pháp sưnghĩ quay lại hướng đông, chỗ đồn canh thứ tư đã. Nhưng đi hơn mươi dặm, pháp sư tự nghĩ, mình đã nguyện không đến xứ Phật thì không lui về hướng đông một bước, sao nay quay về. Thà đi tới hướng tây mà chết, chứ không quay về hướngđông để sống. Trở ngựa lại, pháp sư chuyên tâm niệm đức Quan âm mà đi tới hướng tây bắc. Bấy giờ bốn bề cát nóng mênh mông, người ngựa đều lả. Đêm thì yêu quái nhấp nháng như sao, ngày thì cuồng phong cuốn cát lên, tung bay như mưa mùa. Pháp sư không nao núng gì cả, chỉ khổ vì khát quá, không đi được nữa. Đã 4 đêm 5 ngày rồi, pháp sư không có một giọt nước thấm môi. Cổ, miệng và bụng khô nóng gần chết. Quị xuống mặt cát nóng rát dưới cái nắng sa mạc mà pháp sư vẫn thầm niệm đức Quan âm, khốn đốn đến thế mà không ngừng, thầm bạch rằng con đi đây không cầu lợi lộc, không mong danh vọng, chỉ vì Phật pháp vô thượng mà thôi. Bồtát là đức Từ bi, thương người mà cứu khổ. Con thế này là đang khổ đây, lẽ nào ngài không biết. Pháp sư tác bạch như vậy và không ngừng niệm danh hiệu của ngài. Nửa đêm hôm ấy là đêm thứ năm, đột nhiên có luồng gió mát thổi đến thân thể pháp sư. Pháp sư nghe mát như tắm nước lạnh. Nhờ vậy mà sáng mắt, ngựa cũng dậy được. Cơ thể đã thư, pháp sư thiếp được một lát, mộng thấy vị thần cao lớn, bảo sao không gắng dậy mà đi, lại nằm như thế này. Pháp sư hoãng dậy, đi được mươi dặm thì đột nhiên ngựa tự rẽ qua ngã khác, kéo lại cũng không chịu. Đi vài dặm bỗng thấy cả mẫu cỏ xanh. Pháp sư cho ngựa ăn, và đi mươi bước thì thấy một ao nước, trong và ngọt. Uống rồi người ngựa đều khỏe, nghỉ lại 1 ngày. Hôm sau múc nước, lấy cỏ, và đi tới. Hai ngày sau nữa pháp sư mới ra khỏi sa mạc ... (Chính 50/223).
... Lại đến nước Y lan noa bát phạt đa. Trên đường đến đó có già lam Ca bố đức. Phía nam già lam này, cách vài ba dặm, có hòn núi đơn độc, cây cao cỏ tốt, lá rậm hoa thơm, ao trong suối đẹp. Núi là thắng cảnh mà lại có chùa thiêng, cảmứng thần kỳ. Tinh xá chính giữa có ngôi tượng Quan âm bằng gỗ đàn hương, uy thần đặc tôn. Thường có vài mươi người, trong một hay hai tuần không ăn cơm, không dùng cả nước có thực phẩm nghiền nát, thành tâm cầu nguyện. Ai chân thành thì cảm ứng. Và cảm ứng luôn, nên người đến càng đông. Người trong chùa sợtượng bị bẩn, nên bốn phía cách tượng chừng 7 bước, dựng lan can gỗ. Ai đến cũng triều bái ở ngoài lan can. Hoa hương hiến cúng cũng từ ngoài tung vào. Hoa của ai nằm trong tay hay mắc vào cánh tay của Bồ tát thì được cát tường.
Pháp sư cũng đến cầu nguyện. Mua hoa, xâu thành vòng, pháp sư đến chỗ tôn tượng, chí thành lễ bái tán dương rồi, quì xuống cầu nguyện 3 điều. Một, tại đất Ấn độ này con học tập xong rồi, về nước mà được an toàn thì xin hoa nằm trong bàn tay của ngài. Hai, bao nhiêu phước tuệ có được, con nguyện sinh Đâu suất nội viện, phụng sự Di lạc từ tôn, nguyện này như ý thì xin hoa mắc vào cánh tay của ngài. Ba, giáo lý có chỗ nói chúng sinh có một số không có Phật tánh, nay con nghi hoặc, không rõ có hay không có; nếu một số ấy cũng có Phật tánh, có thể tu hành thành Phật, thì xin hoa mắc vào cổ của ngài. Tác bạch rồi, pháp sư tung hoa vào, đượcđúng cả như lời cầu nguyện. Pháp sư hoan hỷ hết sức. Những người lễ bái và người trong chùa ai cũng vỗ tay, dậm chân, mà nói thật là chưa từng có (Chính 50/239).
... Từ biệt rồi, pháp sư yên lặng, chánh niệm, miệng tụng: sắc không, thọ tưởng hành thức cũng không, nhãn giới không, cho đến ý thức giới cũng không, vô minh không, cho đến lão tử cũng không, thậm chí bồ đề cũng không, không ấy cũng không ... Đệ tử là Đại thừa quang hỏi pháp sư chắc chắn được sinh Di lạc nội viện không, pháp sư nói chắc chắn. Nói rồi, hơi thở nhẹ dần, một lát pháp sưmất mà nhẹ nhàng đến nỗi thị giả không biết liền ... (Chính 50/277).
Sửtruyện của ngài Huyền tráng đến nay đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Học giả ra sức khảo chứng càng không ít. Trong bao nhiêu nguy khốn mà ngài trải qua có sa mạc Gobi. Ở đó, ngày nay không nói cuồng phong cuốn cát lên tung bay như mưa mùa, mà nói là bão cát. Cũng ngày nay, phi cơ loại trung bình bay trên vùng trời sa mạc này vẫn dồi sốc rất khó chịu. Nên học giả thế giới đã và vẫn còn khiếp phục ngài Huyền tráng, nhận rằng phi sức mạnh tôn giáo thì không dễ gì vượt qua bao nhiêu nguy khốn mà ngài đã gặp. Oai linh của đức Quan âm, và của bài Tâm kinh mà đức Quan âm tuyên thuyết, chính cuộc đời và công nghiệp của ngài Huyền tráng là một minh chứng.

(Trích Hai thời công phu - Trí Quang dịch chú)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét