18 thg 12, 2012

NIỆM PHẬT NGHĨA LÀ GÌ ?

http://www.hoangphaphanoi.com/UserImages/2010/12/21/11/phat-a-di-da-3.jpg

Niệm Phật nghĩa là gì ? Thông thường, hễ nghe nói danh từ niệm Phật thì người ta nghĩ ngay đến sự đọc tụng hồng danh của Ngài. Nghĩ như vậy là hẹp quá nên hóa ra sai lầm. Niệm Phật nghĩa là tưởng niệm Phật-đà. Định nghĩa này phải thêm một chút nữa cho rõ, là để nhớ các đức tánh của Phật hầu ăn nhập các đức tánh ấy vào tâm trí, vào hành vi của mình. Nên mục đích của sự niệm Phật đúng như trong kinh Lăng-Nghiêm đã dạy, rằng "chúng sinh tâm tưởng nhớ Phật, nghĩ Phật, thì hiện tại cũng như vị lai quyết định thấy Phật". Thấy Phật, đó là một kết quả mà vừa thực chứng tịnh độ, vãng sinh tịnh độ, lại vừa đầy đủ phước đức,đầy đủ trí tuệ; nói tóm, thấy Phật là sẽ quyết định thành Phật,__ Kinh Di-Đà nói "đối với Vô-thượng-chánh-biến-giác không thoái chuyển nữa "là ý nghĩa này__, nên Quán-Kinh nói: "Chúng sinh tâm tưởng niệm Phật thì tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật."
Niệm Phật là niệm cái gì của Phật ? Như trên đã nói, tưởng niệm Phật-đà là tưởng niệm các đức tánh của Ngài hầu ăn nhập các đức tánh đó vào tâm niệm và hành vi của mình. Như vậy tưởng niệm Phật-đà, dù bằng cách gì cũng là để tưởng niệm đức tánh của Phật, huân tập các đức tánh ấy, thật hiện các đức tánh ấy. Người ta có thể thí dụ như một kẻ quyết chí làm anh hùng nên tưởng niệm đến các vị đó. Tưởng niệm anh hùng là tưởng niệm những đức tánh của họ để huân tập những đức tánh ấy cho mình, hầu tạo cho thành một kẻ anh hùng như họ. Sự niệm Phật cũngđồng tâm trạng đó. Người tu hành pháp môn này là người tưởng niệm đức tánh của Phật để huân tập các đức tánh ấy, tự tạo cho mình thành đấng Phật-đà như Ngài.
Nhưngđức tánh của Phật là gì? Luận Nhiếp-đại-thừa viết: Đức tánh của Phật-đà có 7 thứ mà ai niệm Phật cũng phải tưởng niệm những đức tánh ấy :
1. Trí tự tại. _ Nghĩa là trí tuệ thông đạt tất cả vạn hữu, hiểu rõ tâm lý và biết hết phương pháp điều phục tâm lý đó, tự do một cách tuyệt đối với sự chuyển biến vạn hữu.
2. Thân thường trú. _ Vì đã thể nhập thể tánh chân-như, giải thoát hết mọi hành tướng sinh diệt.
3. Tối vô lậu. _ Nghĩa là đã trừ sạch tất cả hiện hành và chủng tử của phiền não chướng và sở tri chướng.
4. Vô công dụng. _ Nghĩa là tất cả việc làm của một đức Phật phải làm, việc làm ấyđã hoàn toàn thuần thục nên chỉ nhậm vận phát khởi một cách không dừng nghỉ và không gián đoạn, chứ không còn phải tác ý và gia công (tác ý và gia công mới thành việc thì việc làm ấy đã phải có tánh cách gián đọan mà lại không có tánh cách phổ biến).
5. Đại Pháp lạc. _ Là thật hiện thế giới thanh tịnh (tịnh độ), có đủ và thọ dụng tất cả an lạc vi diệu của chánh-pháp đại-thừa.
6. Ly nhiễm ô. _ là ứng hiện trong các thế giới, sanh ra giữa cõi trần tục, nhưng hết thảy những gì của thế gian không thể ô nhiễm được.
7. Thành đại sự. _ Thị hiện tất cả thân hình cho đến thị hiện giáng sinh, thànhđạo, niết-bàn để giáo hóa chúng sinh, ai chưa thành thục thì làm cho thành thục, ai đã thành thục thì làm cho giải thoát.
Tưởng niệm các đức tánh của Phật bằng cách nào? Hỏi như vậy tức là hỏi phương pháp niệm Phật như thế nào? Có mấy phương pháp? Phương pháp niệm Phật đại loại có ba:
1)Chấp trì danh hiệu,
2) Quán tưởng hình tượng
3) Niệm Phật pháp thân.

Nghĩa là tưởng niệm các đức tánh của Phật-đà bằng cách nhớ danh hiệu, bằng cách quán hình tượng, hay bằng cách tưởng niệm pháp thân của Ngài, bởi vì danh hiệu, hình tượng hay pháp thân ấy, phần nào cũng bao gồm, cũng hiện thân của tất cả đức tánh trên. Tưởng niệm đến một kẻ anh hùng, người ta có thể tưởng niệm qua tên tuổi, hình dung hay cá tính của kẻ ấy. Người niệm Phật cũng vậy, bất cứ là bằng cách nào trong ba cách trên, nếu thực hành đúng phương pháp, đều có thể"huân tập đến thực hiện cụ thể các đức tánh của Phật-đà vào tâm trí và hành động của mình".
Tưởng niệm các đức tánh của Phật bằng cách chấp trì danh hiệu của Ngài. __ Nhưng trong ba phương pháp trên, phương pháp "chấp trì danh hiệu" hiện giờphổ thông nhất, bởi vậy, dù cả ba phương pháp đều thù-thắng như nhau, nhưng ở đây chỉ nêu lên phương pháp chấp trì danh hiệu mà giải thích đại khái, hầu mọi người y theo đó mà lý giải và tu tập cho đúng. Để tiện sự hiểu biết, chúng tôiđặt ra mấy câu hỏi sau đây mà trả lời:
a. Chấp trì danh hiệu là thế nào? Nghĩa đen chữ chấp trì là nắm giữ. Đối với danh-hiệu của Phật, tập trung hết cả năng lực lại, nhớ lấy bằng tâm, đọc lấy bằng miệng, đi đứng không quên, nằm ngồi không bỏ, tịnh cũng như động, không lúc nào rời bỏ danh hiệu của Phật, như vậy gọi là chấp trì.
b. Danh hiệu của Phật có gì mà chấp trì? Như trên đã nói, danh hiệu của Phật bao gồm và biểu hiện toàn thể đức tánh của Ngài, chấp trì danh hiệu ấy tức là huân tập các đức tánh Ngài vào mình nên đáng chấp trì và phải chấp trì.
c. Chấp trì danh hiệu của Phật là Phật nào? Đức Phật nào cũng được cả. Đã đến địa vị Phật-đà thì đức Phật nào cũng là đấng đầy đủ tất cả đức tánh của một đức Phật mà trên kia đã nói. Danh hiệu của các Ngài tuy từ ngữ có khác nhau nhưng nhữngđức tánh mà từ ngữ ấy hình dung thì chỉ là một. Các đức tánh của Phật đã kểtrên kia, thâu lại thì có 2 loại: đại giải thoát (kết quả của đại phước đức) vàđại giác ngộ (kết quảcủa đại trí tuệ). Hai loại đức tánh nầy, bất cứ danh hiệu của Đức Phật nào, cắt nghĩa ra cũng gồm có cả.
d. Vậy tại sao thường chỉ chấp trì danh hiệu đức Phật A-Di-Đà? Vì 1) Danh hiệu ấy cũng đầy đủ cả hai đại loại đức tánh của các đức Phật, nên "A-Di-Đà" dịch ý là "vô lượng" nghĩa là hoàn thành vô lượng đức tánh của đại giải thoát (nên gọi là vô lượng thọ) và đại giác ngộ (nên gọi là vô lượng quang). Chấp trì một danh hiệu cho dễ được "nhất tâm bất loạn", chứtâm tưởng chúng ta đã loạn động mà chấp trì nhiều danh hiệu thì khó được hiệu quả cần phải có ấy.
e. Nếu vậy, chấp trì một danh hiệu của đức Phật nào cũng được, tại sao người ta chỉ chấp trì danh hiệu Đức Di-Đà? Vì để cầu sinh Cực-lạc và Đức Phật Di-Đà có nhân duyên với chúng ta hơn. Cầu sinh Cực-lạc là vì có sanh Cực-lạc mới dễ dàng hoàn thành đại-giải-thoát, đại-giác-ngộ, và đầy đủ năng lực cứu thoát muôn loài. Còn Đức Phật Di-Đà có nhân duyên với chúng ta hơn là vì trong kinh nói khi chưa thành Phật, chính Ngài vì chúng ta mà nguyện tạo thành thế giới hệCực-lạc; vì nhân duyên ấy mà ai cũng niệm trì danh hiệu và cầu sanh thế giới của Ngài.
f. Chấp trì danh hiệu như vậy phải đến hiệu quả gì? Phải làm sao cho được "nhất tâm bất loạn". Nhất tâm bất loạn, hiệu quả này có hai lớp: 1) Tâm trí chuyên nhất với danh hiệu của Phật mà không nhớ tưởng gì khác; hình dung điều này, cổ đức thường nói ít nhất 10 tiếng niệm Phật mà vẫn nhất tâm mớiđược vãng sinh. 2) Hành động đồng nhất với đức tánh gồm trong danh hiệu ấy mà không nghĩ và làm gì khác; hình dung điều này, trong kinh nói tâm trí niệm Phật thì tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật. Phải có hiệu quả của "nhất tâm bất loạn" như vậy mới thật hiện được kết quả của tất cả phương pháp niệm Phật.
g. Kết quả của tất cả phương pháp niệm Phật là gì? Là 1) thật chứng tịnh độ, 2) tạo thành tịnh độ, và 3) vãng sinh tịnh độ. Thật chứng tịnh độ nghĩa là do nhất tâm bất loạn như trên nên tâm trí mình nghĩ, hành động mình làm đều y như đại giải thoát và đại giác ngộ của danh hiệu Phật, nghĩa là tâm trí và hành động ấyđã thanh tịnh nên dầu ở trong cảnh giới ô nhiễm mà thật in như ở trong cảnh giới thanh tịnh, không còn ô nhiễm nữa. Tạo thành tịnh độ nghĩa là do nhất tâm bất loạn mà tâm trí nghĩ, hành động làm, đều y như đại giải thoát và đại giác ngộ nên tạo thành cho mọi người sự giải thoát và sự giác ngộ, làm cho thế giới này không còn khổ não do độc ác của họ gây ra bởi ngu si. Vãng sinh tịnh độ là do nhất tâm bất loạn như trên, tâm trí và hành động đều đồng nhất với đại giải thoát và đại giác ngộ, nên khi hết quảbáo ở thế giới hệ Sa-bà khổ não này thì thật hiện quả báo thế giới hệ Cực-lạc thanh tịnh. Thật chứng, tạo thành và vãng sinh tịnh độ như vậy là kết quả của tất cả phương pháp niệm Phật chứ không riêng gì phương pháp chấp trì danh hiệu.
h. Nhất tâm bất loạn là gì mà có những kết quả vĩ đại đáng lẽ phải do Bồ-tát vạn hạnh mới hoàn thành như vậy? Bồ-tát vạn hạnh đều quy tụ cả vào đại phước đức của đại giải thoát và đại trí tuệ của đại giác ngộ. Mà nhất tâm bất loạn là tâm trí đồng nhất với đức tánh đại giải thoát và đại giác ngộ của Phật bao gồm trong danh hiệu của Ngài chứ không xen lẫn gì khác nữa. Tâm trí đồng nhất vớiđức tánh của Phật là cụ thể tất cả bồ tát vạn hạnh, còn vạn hạnh ấy phát động ra nhiều hay ít, có phát động hay tiềm ẩn, chỉ là do nhân duyên kích động có hay không, nhiều hay ít mà thôi. Bởi vậy, nhất tâm bất loạn là thiện căn bất tưnghị, không như thiện căn khác không phải do tâm tánh đồng nhất với đức tánh Phật mà phát hiện. Kinh Di-Đà nói không thể đem thiện căn chút ít vãng sinh Cực-lạc, mà phải chấp trì danh hiệu của Đức Phật Di-Đà được nhất tâm bất loạn, Cực-lạc mới hiện tiền là ý này. Thì gian niệm Phật cho được nhất tâm bất loạn, dù chỉ ởlớp thứ nhất của hiệu quả này, cũng không dễ gì đạt được, chứ khoan nói bước cứu cánh của nó. Nên Kinh Di-Đà nói chấp trì danh hiệu trong 1 ngày, 2 ngày hay 7 ngày mà được nhất tâm bất loạn thì Cực-lạc hiện tiền. Nói như vậy thì biết, dù 7 ngày chứ khoan nói 6 ngày. 5 ngày cho đến 2 ngày 1 ngày, mà được nhất tâm bất loạn thì người ấy quả là bực đại căn đại trí, bực ấy Cực-lạc mới hiện tiền lúc lâm chung. Chứ chúng ta, suốt đời niệm Phật mà tâm trí vẫn loạn động, thìđừng thấy lời Phật dạy 7 ngày được nhất tâm bất loạn mà tưởng pháp môn niệm Phật dễ tu và thấp kém. Tuy nhiên, nhất tâm bất loạn chưa được mà niệm Phật với tín tâm thuần thành, chỉ tin Phật chứ không tin quỉ thần số mạng thì đây cũng là khởi điểm của nhất tâm bất loạn, nên kết quả tương đương với sự niệm Phật đó không phải không có. Kinh nói vãng sinh Cực-lạc có chín bực, pháp môn niệm Phật ai cũng có thể tu, thế giới Cực-lạc ai cũng có thể sinh, là ý nghĩa này. Cực kỳcao và cực kỳ rộng là pháp môn niệm Phật, là hiệu quả nhất tâm bất loạn của pháp môn ấy.
i. Muốn được nhất tâm bất loạn, nghĩa là muốn tu pháp môn niệm Phật thì phải làm thế nào? Phải có ba điều kiện là tín, hạnh, nguyện. Tín là tự tín mình đủ năng lực tu hành đến thành tựu pháp môn niệm Phật, xác tín pháp môn niệm Phật có hiệu quả là thật hiện Cực-lạc, xác tín Đức Phật Di-Đà là đạo sư tiếp dẫn mình và là đấng mà mình cố tu cho được (và sẽ được) như Ngài. Hạnh là chấp trì danh hiệu của Đức Phật Di-Đà bằng cách tâm trí thì nhớ kỹ lấy danh hiệu ấy, miệng tiếng thì đọc luôn danh hiệu ấy và hành động thì động tác y theo đức tánh đại giải thoát và đại giác ngộ mà danh hiệu ấy biểu thị. Nguyện là đem cái hạnh ấy cầu thật chứng tịnh độ, tạo thành tịnh độ và vãng sinh tịnh độ Cực-lạc.
. Vãng sinh tịnh độ là thoát ly Sa-bà, bỏ rơi chúng sinh, nói tóm, là sự phá hoại, phải không? Không. Vì trước khi vãng sinh tịnh độ thì tạo thành tịnh độgiữa nhân gian, do cái nhân ấy mới vãng sinh tịnh độ. Sau khi vãng sinh tịnh độthì hồi nhập Sa-bà, tạo thành tịnh độ với tất cả năng lực vô thượng mà nếu không vãng sinh Cực-lạc thì không có được dễ dàng. Nên vãng sinh Cực-lạc là sựcần thiết mà sự cần thiết ấy chính là vì để cải tạo thế giới Sa-bà thành thếgiới Cực-lạc, giáo hóa tất cả chúng sanh đồng thành các vị Thượng-Thiện-Nhân.
(Trích Người xuất gia - Thích Trí Quang)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét