16 thg 12, 2012

VỀ LỄ NHẠC PHẬT GIÁO VN


Thượng Tọa Thích Lệ Trang Sám Chủ Đại Trai Đàn Chẩn Tế Chùa Minh  
Thành
Thượng Tọa Thích Lệ Trang Sám Chủ Đại Trai Đàn Chẩn Tế Chùa Minh Thành
I. DẪN NHẬP
Lễ nhạc là điều rất quan trọng trong đời sống con người. Vì lẽ, đời thiếu lễ, thì đời sẽ hỗn loạn; đời thiếu nhạc, thì đời sẽ khô khan. Bởi vậy các tôn giáo có lễ nhạc cũng không ngoài mục đích này. Vì thế, các tôn giáo cần phải phát huy và duy trì lễ nhạc để gìn giữ nếp sống cao đẹp cho đời. Đạo Phật, ngoài kho tàng triết lý sâu sắc ra, còn có âm nhạc, nghi lễ để ca ngợi công đức của chư Phật, Bồ-tát và đồng thời là một cách để diễn bày chân lý vô thường, vô ngã và giá trị giải thoát, dùng âm nhạc để thức tỉnh lòng người.
Theo truyền thuyết, khi Đức Phật còn tại thế, sau mỗi lần thuyết pháp, có chư thiên rải hoa, trỗi nhạc cúng dường để tỏ lòng quy kính và tán dương chân lý mầu nhiệm. Lúc sắp tịch diệt, Đức Phật phó chúc cho các vị quốc vương hộ trì chánh pháp. Vì thế, những pháp hội sau khi Phật nhập diệt, được vua chúa đem âm nhạc ở cung đình diễn tấu để cúng dường pháp hội.
Phật giáo truyền sang Trung Hoa vào thời Đông Hán năm thứ 10, niên hiệu Vĩnh Bình, vào khoảng năm thứ 67 Tây lịch. Lúc bấy giờ ở Trung Hoa đã có đạo Khổng và đạo Lão, vì muốn hoằng pháp phổ cập đến mọi tầng lớp nhân dân, nên các Tổ sư đã dùng mọi phương tiện như văn từ, âm nhạc, giọng điệu của hai đạo trên, rồi châm chước những giọng điệu sẵn có của mình, rút lấy những kệ tụng trong Tam tạng và giáo lý mà phổ vào. Còn âm nhạc thì dùng âm nhạc cổ điển ở phương Đông, giọng điệu thì theo những điệu thứ của chư Thiên mà táng tụng(1) với mục đích là làm phương tiện cho việc truyền bá chánh pháp đến mọi người.
Về bộ môn này thì từ xưa tới nay sự giáo dục chưa được thống nhất, những giọng điệu tuỳ theo sở kiến của vị thầy tự vẽ cho đệ tử của mình; rồi tuỳ theo địa phương, tuỳ theo ngôn ngữ, tuỳ theo tình huống mà giọng điệu được chuyển biến.
Âm nhạc Phật giáo Việt Nam, một phần nào đó cũng chịu ảnh hưởng bởi nhạc Phật giáo Trung Hoa(2), nhưng các vị Tổ sư Việt Nam sớm đã biệt hội nhập cái hay cái đẹp của người rồi tiêu hoá thành nét đặc trưng của âm nhạc Phật giáo Việt Nam. Hơn nữa từ thời đại Lý-Trần, đất nước chúng ta mở mang bờ cõi về phương Nam, lại được tiếp nhận thêm âm nhạc Champa và Chân Lạp, đã giúp cho âm nhạc Việt Nam có đến ba nét đặc trưng của ba niềm Bắc, Trung, Nam, với những đặc trưng của mỗi vũng đất. Từ đây ta có thể khẳng định rằng, tôn giáo không thể không có bộ môn lễ nhạc, vì đó là sức sống của tâm linh được thể hiện ra giọng điệu, cung cách bên ngoài.
II. MỘT SỐ KHÁI NIỆM TRONG NGHI LỄ PHẬT GIÁO
Khi ta nói đến nghi lễ là nói đến nhiều khía cạnh của các hình thức tổ chức trong sinh hoạt tôn giáo, chứ không chỉ có riêng việc tán tụng mà thôi. Nay xin nêu ra vài khái niệm trong nghi lễ Phật giáo như lễ nhạc, lễ tụng, lễ khí, lễ nghi, lễ bái, lễ phục, lễ đường v.v…
1. Lễ Nhạc
Khổng Tử nói "Nhạc giả thiên địa chi hoà dã" Nhạc là sự hoà hợp của trời đất âm dương vậy. Âm thanh êm ái, du dương và cử chỉ thanh cao tốt đẹp là hai phương tiện giúp vào việc giáo hoá con người trở về với đạo đức. Âm nhạc Phật giáo Đông phương thuộc về thanh nhạc (chú trọng ở âm thanh lời tán, còn nhạc khí chỉ là phần phụ hoạ) (3).
Nét đặc thù của âm nhạc Phật giáo là không đưa ra điệu nhạc nào để bắt buộc, mà tuỳ theo trường hợp địa phương, ngôn ngữ mà tùy duyên, có nghĩa là kệ văn thì không khác mà điệu tiết thì chuyển biến. Vì thế, các nhà nghiên cức âm nhạc Phật giáo Đông phương cho rằng âm nhạc trong Phật giáo Đông phương có nhiều chất thơ. Cũng cần nói thêm là, thể nhạc và văn chương trong nhà Phật là thể nhạc phổ thơ, nhưng tài tình nhất là một thể thơ mà phổ rất nhiều nhạc. Vì trong một thể thơ khi thì diễn tả về đạo lý, khi thì nói về sự khổ lụy của chúng sanh, khi thì tả về sự ân cần ăn năn sám hối, khi thì tả về sự nhiếp thọ độ sanh của chư Phật. Chỉ trong 4 câu kệ tứ tuyệt mà thể nhạc phổ ra có thể dài hơn (1 thành 10) là tiếng ngân nga trầm bỗng, nếu ghi nhạc ta sẽ thấy nhiều nốt (note) nối nhau bằng dấu liên âm mà lời nhạc chỉ có vài chữ. Sở dĩ có những thể nhạc kỳ lạ như vậy là vì đặc trưng âm nhạc Á Đông là thiên về tâm linh, tình cảm, nên phải dùng thể nhạc này mới diễn tả hết được. Vả lại, muốn diễn tả sự huyền bí cao siêu bằng tinh thần, thì phải dùng nét nhạc dài và ít lời. Về âm điệu thể nhạc nhà Phật có chừng ba bốn chục điệu, còn thể thơ ít hơn, đại để như:
Loại ngũ ngôn: Thập phương tam thế Phật v.v…
Loại tứ ngôn: Nhứt tâm quy mạng v.v…
Loại thất ngôn: Trí huệ hoằng thâm đại biện tài v.v…
Loại tứ tuyệt: Ngã kim phụng hiến cam lồ vị v.v…
Loại cổ phong: Dương chi, tán lễ v.v… Sơ hướng mộng huỳnh lương v.v…
Thất ngôn trường thi: A Di Đà Phật thân kim sắc v.v… Quy mạng thập phương Điều ngự sư v.v…
2. Lễ Tụng
Tụng là đọc giọng to có trầm phù, nhịp nhàng theo một tiết tấu. Giọng điệu đọc kinh trong lúc hành lễ có chia ra làm hai giọng căn bản:
a. Giọng lạc (vui) còn gọi là giọng thiền.
b. Giọng ai (buồn)
-Giọng lạc được đọc tụng trong thời công phu sáng hay những lúc tuyên pháp ngữ, cầu an v.v…
-Giọng ai được đọc trong thời công phu chiều, khóa lễ Tịnh độ chiều tối, hay lúc cầu siêu độ linh v.v…
3. Lễ Khí
Lễ khí là những đồ tự khí trong lúc cúng tế. Lễ khí còn gọi là nhạc khí như chuông gia trì, mõ gia trì (mộc ngư), kích tử (khánh), linh, đẩu (tang, tiêu cảnh), hồng chung, đại cổ, tiểu cổ (kinh cổ (kinh cổ), thủ lư, phủ xích (chấn xích), kiền chùy, báo chung, mộc bảng, bê, tích trượng, như ý, ống tiêu, ống sáo, đàn bầu, đàn nhị (cò), đàn nguyệt (kìm), đàn sến, đàn gáo, đàn tranh, phách, cặp trống âm dương, trống cái, thanh la, não bạt, kèn tiểu, kèn trung v.v… Những nhạc khí này được dùng trong lúc tán tụng, tùy theo pháp hội lớn nhỏ.
4. Lễ Nghi
Lễ nghi là cách thức bày tỏ, sắp đặt bên ngoài để nói lên lòng kính trọng bên trong. Lễ nghi trong Phật giáo còn có nghĩa là nói về tác phong, uy nghi của vị Tăng khi hành lễ trước trước đại chúng, phải có đủ thân giáo(4) để cảm hoá chúng.
5. Lễ Bái
Lễ bái là cách lạy bên trong lúc làm lễ. Về cách lạy trong nhà Phật là ảnh hưởng cách lạy của người Ấn Độ. Nguyên khi Phật còn tại thế, các đệ tử mỗi khi gặp Ngài, để tỏ lòng tôn kính, đều quỳ xuống đặt đảnh đầu mình lên bàn chân Phật. Cho nên khi lạy phải "ngũ thể đầu địa" (đầu, 2 khuỷu tay, đầu gối 2 chân) sát dất, hai tay trải ra như thể đang nâng chân Đức Phật. Lễ bái phải lạy 3 lạy tiêu biểu cho Tam bảo Phật, Pháp, Tăng. Nhất là khóa lễ cùng đại chúng, mọi người phải lạy nhịp nhàng, chứ không được tùy tiện theo ý riêng.
6. Lễ Phục
Lễ phục là y phục dành riêng trong lúc hành lễ (hội hè, cúng tế). Về pháp phục của Tăng sĩ thì có 3 y là: 5 điều, 7 điều, 9 điều v.v…Đức Phật đã dạy rõ trong trườnghợp nào được mặc 3 y như trong luật đã dạy. Riêng Phật giáo Bắc tông thì ngoái 3 y ra còn có những y phục khác nữa như áo vạt khách, áo nhựt bình(5), áo tràng đi đường, áo tràng hành lễ v.v… Ngoài pháp phục lại còn có những mạo phục khác nữa như: mũ Quan Âm, mũ tỳ lô, mũ hiệp chưởng(6).
7. Lễ Đường
Lễ đường là chỉ những nơi cúng tế, hành lễ. Trong Phật giáo, lễ đường còn chỉ nơi thờ chư Phật, Bồ tát. Chánh điện phải thờ tự như thế nào cho trang nghiêm hợp lễ từ cách bày tượng thờ, đồ tự khí, màu sắc, ánh sáng… phải được bố cục đúng chủ đề, mang nét thiền vị, tránh những màu sắc diêm dúa gây nên sự mất tập trung nơi người chiêm bái.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA NGHI LỄ TRONG HAI THỜI KHOÁ TỤNG
Nếu có dịp tham quan những ngôi chùa cổ, ta sẽ thấy trước nhà thiêu huơng, phần nhiều có treo câu đối: "Mộ cổ thần chung, cảnh tỉnh ái hà danh lợi khách. Triêu kinh vãng kệ hoán hồi khổ hải mộng mê nhân". (Trống sớn chuông chiều, thức tỉnh khách trần danh lợi chốn sông yêu. Kinh mai kệ xế, kêu về kẻ tục mộng mê nơi biển khổ). Phải chăng câu đối này đã nói lên công năng của những hồi chuông điệu trống trong các thời kinh để cảnh tỉnh khách trần mải mê trong con đường tranh đua danh lợi sớm quay về chánh đạo đường chơn. Vì thế, nếu mang nặng tâm hồn trần tục, ta sẽ không cảm nhận được những lời kinh ấy. Lời kinh tiếng kệ được diễn tấu thành những nét nhạc du dương, huyền mặc như khói trầm, an tĩnh như định lực, cao vút như núi tuyết và uyển chuyển như tràng phan. Không chỉ giá trị ở văn thơ, triết lý, nét nhạc diễn tả ý thơ, mà đạo lực của người tu mới chính là phần quan trọng đáng kể hơn cả. Nội tâm thì chánh niệm mới tỉnh giác, ngoại cảnh thì u nhã thanh tịnh, nên nghi lễ âm nhạc của hai thời khóa tụng mang tính chất siêu phàm thoát tục, không vướng lụy trần ai. Nếu chúng ta đem tâm thanh tịnh để lắng nghe thì sẽ cảm nhận được những chân lý vô thường của kiếp người…
Trong nhạc lễ Phật giáo, nếu nghiên cứu ta sẽ thấy được một nếp sống tâm linh cao đẹp. Với màu sắc thiền vị, âm điệu du dương, thanh nhàn, nghĩa lý uyên thâm có công năng cảnh tỉnh người đời về với đời sống thánh thiện, đạo đức, nhìn vào thực tại để thấy được bộ mặt thật của mình, để không còn bị đảo điên trước huyễn cảnh
IV. VIỆT HOÁ NGHI LỄ THÍCH ỨNG VỚI THỜI ĐẠI
Lễ nhạc Phật giáo ngày xưa đã phát triển đến trình độ khá cao, điều đó có thể thấy được q ua sự khảo cứu về lễ nhạc cổ điển. Người thực hiện lễ nhạc cần phải có một đời sống tâm linh vững chãi, thảnh thơi, bằng ánh sáng chánh niệm quán chiếu, lúc đó thân, khẩu, ý tương ứng trong chơn lý của pháp ngữ, kệ tụng; sự chuyên nhất này sẽ tạo thành một đạo lực thanh tịnh lan tỏa ra không gian pháp giới, có công năng chuyển hoá nghiệp lực của chúng sanh. Nhưng lễ nhạc bây giờ của Phật giáo, theo người viết, về hình thức lẫn nội dung có lẽ thua kém xa ngày trước và phần nào không còn biểu lộ được nếp sống tâm linh siêu việt như lễ nhạc cổ điển. Lời văn trong nghi lễ đa phần là Hán văn, nhưng Hán ngữ ngày nay không được chú trọng va không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của lời bài tán, câu kệ… Chính vì thế mà chủ trương của giáo hội đề ra là cần phải Việt hoá nghi lễ để khế hợp căn cơ người nghe và dễ cho ngừoi thực hành nghi lễ. Muốn thực hiện được ước vọng này, thiết tưởng Giáo hội cần phải đào tạo một số tu sĩ vững chãi về kiến thức và khả năng trong ngành nghi lễ, để có thể đưa lễ nhạc của đạo Phật tiến đến những hình thức phù hợp với tâm lý và ngưỡng vọng của con người thời đại.
Lễ nhạc cần phải được thiết lập một cách trang nghiêm, căn cứ trên truyền thống; những thang âm, điệu thức của thiền gia phải được duy trì và sáng tạo, còn nhạc cụ có thể phương tiện dùng bằng chất liệu bây giờ và kỷ thuật mới. Phải có sự phối hợp trao đổi giữa ba niềm, tạo điều kiện gặp gỡ giữa các nhà có nhiều kiến thức và kinh nghiệm về âm nhạc và đạo học. Giáo hội cần phải thành lập mọ6t trường chuyên đề về âm nhạc Phật giáo, để huấn luyện, gạn lọc những bài hát không phù hợp, cần phải cân nhắc kỹ có nên chăng cử xướng trong điện Phật, vì những nét nhạc ấy không hội đủ tinh thần từ bi và trí tuệ? Phải thống nhất nghi lễ Phật giáo 3 niềm để mọi người thấy rằng đây là âm nhạc truyền thống của thiền gia, giống như quốc ca của một đất nước. Nó chính là một thành tố của văn hoá Phật giáo Việt Nam, cũng chính là âm nhạc truyền thống của Phật giáo và dân tộc Việt Nam, và chỉ có đất nước Việt Nam mới có được những nét nhạc, âm điệu đặc trưng như thế. Phải cấp thiết thành lập một ban nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật; phải thu lượm những bài thơ, bài văn đã phổ nhạc để tìm hiểu, phân tích truyền bá, bảo tồn và phát huy. Phật tử Việt Nam sẽ tìm nguồn cảm hứng ở đây để sáng tác và phải cố gắng tu tập cho tâm hồn an tĩnh, thanh thoát để sáng tác.
V. KẾT LUẬN
Qua sự trình bày trên, chúng ta thấy rằng: Âm nhạc Phật giáo là phản ảnh của đời sống an lạc, giản dị; của tâm hồn giải thoát, thanh khiết. Nọ6i tâm thì bình tĩnh, ngoại cảnh thì trang nghiêm, nền âm nhạc Phật giáo đã thấm nhuần tinh thần thoát tục, không hệ lụy ư phiền. "Đã đến lúc Tăng Ni Phật giáo Việt Nam chúng ta phải bảo tồn những di sản cao quý của cha ông, đừng hời hợt coi thường giống như bác nhà quê đem một cái trống đời Khang Hy đựng lúa cho vịt ăn. Trong khi đó, trên thế giới các nhà bảo tồn nghiên cứu trân trọng tìm những cổ vật quý báu đó để đưa vào viện bảo tàng."(7)
Cuối cùng, để kết thúc bài viết này, xin dẫn câu nói của Tổ sư trong Luật Sa di sớ chép rằng: "Giá biên na biên, ứng dụng bất khuyết". Bên sự bên lý tất cả đều la phương tiện để đưa người vào đạo, người học Phật phải tùy duyên ứng dụng, đừng có nhìn cục bộ, tự tôn, cố chấp để làm mất đi những giá trị cao quý của tiền nhân đã dày công xây dựng.

THÍCH LỆ TRANG


CHÚ THÍCH
(1) Tào Thực tự Tử Kiến, hiệu Đông An Vương, con thứ của Ngụy Vương Tào Tháo, trước theo đạo tiên, thường tu luyện trên đỉnh Viên sơn. Trong lúc sắp đắc đạo ông nghe được tiếng ca hát của tiên nữ tán thán đạo hạnh tu hành của ông. Vì nét nhạc du dương, đượm thiền vị, thanh thoát siêu trần nên làm ông say mê thâm nhập. Sau này được tham vấn với các bậc cao tăng của Phật giáo và được nghiên cứu giáo lý của Đức Phật, ông nhận thấy đạo Phật mới đích thực là chân lý giải thoát khổ đau, nên ông phát at6m quy hướng học Phật. Được các Tổ sư khuyến hóa, ông liền phổ những điệu thức của chư Thiên mà chính ông được nghe, rồi thêm vào những giọng điệu sẳn có ở đời mà chế ra giọng điệu tán tụng cho Phật giáo. Nhờ đó mà âm nhạc Phật giáo Đông phương rất du dương thanh thoát, nó có nhiều nét đặc thù, nhạc điệu ở thế gian không thể sánh kịp (Pháp Uyển Châu Lâm).
(2) Theo tài liệu hiện có:
Pháp sự đạo tràng công văn cách thức-xuất bản năm 1299. đến năm 1302 có Hứa Tông Đạo từ Trung Hoa sang Việt Nam truyền bá khoa Chẩn tế Du già diệm khẩu (Phật giáo sử luận -Nguyễn Lang).
(3) Tiếng Phạn là Bái: chúc tụng; Bái tán: đọc anh, tán tụng.
(4) Thân giáo: là dùng hành động, thân tướng để giáo hóa chúng sanh.
(5) Áo nhật bình do Hòa thượng Thanh Ninh Tâm Tịnh, Tổ khai sơn chùa Tây Thiên (Huế), sáng tạo.
(6) Mũ Hiệp chưởng chỉ riêng Phật giáo Việt Nam mới có, mũ này do các vua triều Nguyễn chế ra để ban tặng cho các vị Tăng cang đội khi vào triều. Sau được dùng phổ cập trong những pháp hội trai đàn.
(7) Trích "Nói chuyện về âm nhạc Phật giáo" của Giáo sư Tiến sĩ âm nhạc Trần Văn Khê.
http://www.tenging.com.tw/images/upload/Image/teng-07.jpg

Kích tử (khánh)
http://commondatastorage.googleapis.com/static.panoramio.com/photos/original/7790524.jpg

Kiền chùy
http://langhanhthien.files.wordpress.com/2009/04/chuong-chua-keo.jpg

Đại hồng chung
http://www.simplevietnam.com/uploads/Binh%20Thuan/Chua%20Phat%20Quang/mogomit-1.jpg

Mõ chuông
http://www.ccots.com.cn/userfiles/image/2009/08/20090831162626.jpg

Cây như ý
http://phattuvietnam.net/files/2009/IMG_8253.jpg

Thủ lư (lư hương cầm nơi tay)
http://phattuvietnam.net/files/2009/IMG_8286.jpg

Thổi pháp loa
http://phattuvietnam.net/files/2009/IMG_8251.jpg

Thủ xích (Trên thân có khắc 3 chữ án già hồng, để thầy sám chủ làm hiệu lịnh, như cây đũa của nhạc trưởng)
http://www.daophatngaynay.com/vn/thumbnail.php?file=images/2010/quy2/HTminhthong_427539794.jpg&size=article_medium

H.T Thích Minh Thông
Có lẽ Nilan nghe các Thầy tụng âm Hán Việt chú đại bi mà tưởng tiếng Phạn (zh. Phạm/Phạn ngữ 梵語; sa. saṃskṛtā vāk संस्कृता वाक्, hoặc ngắn hơn là saṃskṛtam संस्कृतम्) là một cổ ngữ của Ấn Độ và là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáoKì-na giáo. Nó có một vị trí quan trọng trong văn hóa Ấn Độvà các văn hóa vùng Đông Nam Á tương tự như vị trí của tiếng Latinhtiếng Hy Lạp trong châu Âu Trung Cổ; nó cũng là kết cấu trọng điểm của truyền thống Ấn giáo/Phệ-đà, nhưng ở một mức độ cao cấp hơn. Ngày nay nó là một trong nhiều ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ, mặc dù tiếng Hindi (hindī हिन्दी) và các thứ tiếng địa phương khác ngày càng được dùng phổ biến.)
Chú đại bi tiếng Phạn:
Namo ratnatrayaya namah arya avalokitesvaraya bodhisatvaya maha satvaya maha karunikaya Om salavati suddhana tasya nama skrtva nimam arya avalokitesvara lamtabha Namo nilakanta srì maha patasami sarva todhusuphem asiyum sarva sadana mabhaga mabhatetu tadyatha om avaloki lokate kalati esili maha bodhisatva sabho sabho mara mara masi masi ridhayum guru guru garmam turu turu bhasiyati maha bhasiyati dhara dhara dhirìni svaraya jala jala mama bhamara mudhili edyehi sini sini alasim bhala sari bhasa bhasim bharasaya hulu hulu pra hulu hulu srì sara sara siri siri suru suru budhiya budhiya budhaya budhaya maitraye nilakanta trisarana bhaya mana svaha sitaya svaha maha sitaya svaha sitayaye svaraya svaha nilakanta svaha pranila svaha srì sidha mukhaya svaha sarva maha astaya cakra astaya svaha padma kesaya svaha nilakante pantalaya svaha mobholi sakaraye svaha
Namo ratnatrayaya namah arya avalokita isvaraya svaha om sidhyantu mantra pataye svaha.

Chú đại bi dịch âm Hán Việt.

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất bà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án Tất Điện Đô Mạn Đa Ra. Bạt Đà Dạ, Ta Bà Ha.

Các Sư Nam tông mới tụng kinh bằng tiếng Pali (Pāli (पाऴि) là một ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn-Aryan Trung cổ hay prakrit. Nổi tiếng là một ngôn ngữ tế lễ mà các bộ kinh Theravada Phật giáo (cũng được biết đến như Kinh Pāli hay Tipitaka trong tiếng Pāli) được viết tại Sri Lanka vào thế kỉ 1 TCN bằng chữ Sinhala. Pāli được viết bằng nhiều hệ thống chữ viết khác nhau, từ chữ Brahmi, Devanāgarīvà các chữ viết thuộc hệ Ấn-Aryan đến một dạng latinh hóa (của phương Tây) do T. W. Rhys Davids thuộc Pali Text Society đưa ra.)

Kinh điển Phật giáo trước khi có chữ quốc ngữ thì có vài kinh diễn Nôm, đa phần đều phải tụng bằng âm Hán Việt. PGVN hiện tại đã và đang phiên dịch toàn bộ kinh điển ra Việt ngữ. Kinh tụng trong đám tang thường là kinh A Di Đà, có rất nhiều bản dịch, nhưng không có sự thống nhất chọn bản dịch nào khả dĩ số đông chấp thuận, vì vậy khi tụng chung với nhiều nhóm Phật tử thì phải tụng âm Hán Việt (thí dụ một đoạn mở đầu là: Như thị ngã văn nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên, dữ đại tỳ kheo tăng thiên nhị bá ngũ thập = Tôi nghe như vầy, một thời đức Phật ở tái nước Xá Vệ, nơi vườn của ông Cấp Cô Độ cây của thái tử Kỳ Đà, cùng với 1250 vị đại tỳ kheo) Người không đi chùa, nghe tụng kinh âm Hán Việt thì không hiểu gì cả.
Chúc Nilan luôn an lạc thân tâm.

金剛鈴、杵


Linh và xử

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét