15 thg 12, 2012

KHOA PHÓNG SINH

http://www.phoquang.org/uploads/News/pic/small_1225153136.nv.jpg


http://saigontimesusa.com/bai/phongtranh/images/nguyenthihop-phongsanh.jpg

Khoa Phóng Sinh

Tán Dương chi:
Cành dương nước phép Rải khắp ba ngàn Tánh không tám đức sạch trần gian Pháp giới rộng thênh thang Tội nghiệp tiêu tan Lửa đỏ hoá sen vàng. [1]
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ tát ma ha tát. (3 lần)
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát ma ha tát. (3 lần)
Chú Đại bi:
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni : Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca rô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Án. A bà lô hê, lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ. Phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na. A ra sâm phật ra xá lị, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lị dạ. Na ra cẩn trì. Địa lị sắt ni na. Ba dạ ma na, sa bà ha. Tất đà dạ, sa bà ha. Ma ha tất đà dạ, sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra, sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ, sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra da, sa bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a lị da, Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, sa bà ha. Án tát điện đô, Mạn đa ra, Bạt đà da, sa bà ha. (1 lần hoặc 3 lần)
Nam mô Cam Lộ Vương Bồ tát ma ha tát. (3 lần)
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh:
Quan tự tại đại bồ tát đã đi vào Bát nhã ba la mật đa sâu xa, soi thấy năm uẩn đều không, vượt mọi khổ ách. Ngài nói, tôn giả Thu tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy. Tôn giả Thu tử, Không ấy của các pháp không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Thế nên trong Không không sắc thọ tưởng hành thức, không nhãn nhĩ tỵ thiệt thân ý, không sắc thanh hương vị xúc pháp, không nhãn giới cho đến không ý thức giới, không vô minh và sự diệt tận của vô minh, cho đến không lão tử và sự diệt tận của lão tử, không khổ tập diệt đạo, không quán trí, không thủ đắc, vì không thủ đắc gì cả. Bồ tát vì y theo Bát nhã ba la mật đa nên tâm không bị chướng ngại, vì không bị chướng ngại nên không khiếp sợ, siêu thoát mộng tưởng thác loạn, cứu cánh niết bàn. Phật đà cả ba thì gian vì y theo Bát nhã ba la mật đa nên được vô thượng bồ đề. Do đó mà biết Bát nhã ba la mật đa là bài chú rất thần diệu: bài chú rất sáng chói, bài chú tối thượng, bài chú tuyệt bậc mà đồng bậc, trừ được hết thảy khổ não, chắc thật, không hư ngụy. Nên tôi nói chú Bát nhã ba la mật đa. Ngài liền nói chú ấy: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha.[2]
Chú Vãng sanh:
Nam mô a di đa bà dạ, đá tha dà đá dạ, đá địa dạ tha, a di lị đô bà tì, a di lị đá tất đam bà tì, a di lị đá tì ca lan đế, a di lị đá tì ca lan đá, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, sa bà ha. (3 lần)
Khải thỉnh:
Hương hoa nghinh, hương hoa thỉnh.
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh Tận cùng hư không khắp cả pháp giới mười phương Phật bảo.
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh Tận cùng hư không khắp cả pháp giới mười phương Pháp bảo.
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh Tận cùng hư không khắp cả pháp giới mười phương Tăng bảo.
Ngưỡng bạch:
Mười phương Tam bảo, đức bổn sư Thích Ca, đấng cha lành Di Đà, đức Như lai Bảo Kế, đức Như lai Bảo Thắng, đại sĩ Quán Âm, bồ tát Thế Chí, trưởng giả tử Lưu Thủy, đại sư Thiên Thai, đại sư Vĩnh Minh, đại sư Liên Trì, cùng chư vị bồ tát đại sĩ, cúi xin từ bi chứng minh hộ niệm. Nay có các chúng sinh sống ở dưới nước, trên đất và trong hư không, bị người giăng bắt, sắp vào cửa chết, đệ tử _____, phát lòng từ bi, học hạnh bồ tát, chuộc về thân mạng, thả đi rong chơi. Nay con y theo kinh điển đại thừa, ca ngợi bảy Phật Như lai, kính lạy Thế tôn mười hiệu, giảng nói mười hai chi phần duyên khởi, cùng vì chúng sinh mà sám hối nghiệp nhân đời trước, trao cho Ba sự quay về, phát bốn thệ nguyện rộng lớn, xưng niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, chỉ mong sao các chúng sinh này, vì tội chướng sâu nặng, tâm thức mê mờ, chẳng thể hiểu rõ pháp mầu sâu xa. Ngưỡng xin mười phương Tam bảo, uy đức cao cả, thầm thêm gia hộ, khai ngộ cho các chúng sinh này, mau được giải thoát.
Sám hối:
Hiện tiền các chúng sinh, các vị hãy nhớ nghĩ do những nghiệp nặng trong nhiều đời trước nên ngày nay các vị chịu quả báo làm thân súc sanh. Nay tôi vì các vị, đối trước Tam bảo, bày tỏ những lỗi lầm, các vị hãy chí thành theo tôi sám hối.
Đời trước đã tạo bao ác nghiệp
Đều do vô thỉ tham, sân, si
Từ thân miệng ý phát sinh ra
Tất cả tội chướng đều sám hối. (3 lần)
Thất Phật diệt tội chân ngôn:
Li bà li bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tì lê nễ đế, ma ha dà đế, chân lăng càn đế, sa bà ha. (3 lần)
Nam mô Cầu Sám Hối bồ tát ma ha tát. (3 lần)
Quay về nương tựa:
Các Phật tử, các vị chẳng nghe Ba ngôi quí báu, chẳng biết quay về nương tựa, cho nên luân hồi trong ba cõi, đọa làm thân súc sinh. Nay tôi vì các vị truyền trao Ba sự quay về, các vị hãy lắng nghe.
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Quy y Phật, đấng phước tuệ vẹn toàn. Quy y Pháp, đạo thoát ly tham dục. Quy y Tăng, chúng đáng được tôn kính. Quy y Phật, không đọa địa ngục. Quy y Pháp, không đọa ngạ qủy. Quy y Tăng, không đọa súc sanh.
Quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi. (3 lần)
Thuyết pháp:
Các Phật tử, nay tôi vì các vị nói mười hai nhân duyên: duyên sinh và đoạn diệt, mong các vị hiểu rõ pháp tướng sinh diệt, thể hội thật tánh bất sinh diệt, ngay đây cứu cánh, ngay đây thanh tịnh, ngay đây tự tại. Một cứu cánh thì toàn thể cứu cánh, một thanh tịnh thì toàn thể thanh tịnh, một tự tại thì toàn thể tự tại, cùng nương chư Phật, chứng đại niết bàn.
  1. Duyên sinh:
Do vô minh, có hành sinh; do hành, có thức sinh; do thức, có danh sắc sinh; do danh sắc, có lục nhập sinh; do lục nhập, có xúc sinh; do xúc, có thọ sinh; do thọ, có ái sinh; do ái, có thủ sinh; do thủ, có hữu sinh; do hữu, có sinh sinh; do sinh, có lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh, hay toàn bộ Khổ uẩn sinh. Ðây gọi là duyên sinh.
  1. Đoạn diệt:
Do đoạn diệt tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt; do hành diệt nên thức diệt; do thức diệt nên danh sắc diệt; do danh sắc diệt nên lục nhập diệt; do lục nhập diệt nên xúc diệt; do xúc diệt nên thọ diệt; do thọ diệt nên ái diệt; do ái diệt nên thủ diệt; do thủ diệt nên hữu diệt; do hữu diệt nên sinh diệt; do sinh diệt nên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ Khổ uẩn diệt. Đây gọi là đoạn diệt.
Vô minh và vô tánh vốn là thể bất động của chư Phật. Các vị chấp trước, vọng khởi vô minh, như người bị bịnh mắt nhặm, thấy trong hư không có hoa đốm. Biết hoa đốm đó là huyễn ảo thì vô minh liền diệt.
Xưng danh:
Các Phật tử, tôi nay vì các vị xưng tán danh hiệu cát tường của các đức Như lai, có năng lực khiến cho các vị thoát hẳn cái khổ ba đường tám nạn, thường làm người Phật tử chân thật và thanh tịnh của Như lai.
(Bảy Phật Như lai:)
Nam mô Đa Bảo Như lai.
Nam mô Bảo Thắng Như lai.
Nam mô Diệu Sắc Thân Như lai.
Nam mô Quảng Bác Thân Như lai.
Nam mô Ly Bố Uý Như lai.
Nam mô Cam Lộ Vương Như lai.
Nam mô A Di Đà Như lai. (3 lần)
Nam mô Bảo Kế Như lai. [3] (3 lần)
Nam mô Thích Ca Như lai. (3 lần)
(Mười hiệu Thế Tôn:)
Nam mô Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật: Thế tôn.
Các Phật tử, các đức Như Lai đây dùng năng lực của thệ nguyện để cứu giúp chúng sinh lìa xa phiền não, thoát khổ ba đường, an ổn thường lạc. Một phen xưng danh hiệu của các đức Như Lai đây thì ngàn đời lìa khổ, chứng đạo vô thượng.
Phát nguyện:
Các Phật tử, tôi lại vì các vị xướng lên bốn thệ nguyện rộng lớn cho các vị nghe, các vị theo pháp phát nguyện, theo nguyện tu hành, hãy lắng lòng nghe:
Chúng sinh vô biên nguyện hoá độ
Phiền não vô tận nguyện đoạn trừ
Pháp môn vô lượng nguyện tu học
Phật đạo vô thượng nguyện thành tựu. (3 lần)
Tự tánh chúng sinh nguyện hoá độ
Tự tánh phiền não nguyện đoạn trừ
Tự tánh pháp môn nguyện tu học
Tự tánh Phật đạo nguyện thành tựu. (3 lần)

Cầu nguyện:

Nam mô Thường trụ mười phương Phật bảo. Nam mô Thường trụ mười phương Pháp bảo. Nam mô Thường trụ mười phương Tăng bảo.
Đệ tử _____, một lòng tha thiết, ngưỡng nguyện mười phương Tam bảo từ bi gia trì, thương xót hộ niệm. Nguyện xin chúng sinh được phóng thả hôm nay, sau khi tự do, mãi mãi không bị vướng bẫy sập, bị ăn nuốt hay bị giết chết, ngàn năm đều như vậy, mau sinh tịnh độ. Và nguyện cho các chúng sinh kia khi sinh làm người thì hồi tâm hướng thiện, đốn ngộ nhân quả ba đời, rõ lẽ “tâm, Phật, chúng sanh” bình đẳng không hai, giải tỏa oan kết, cứu đời giúp người, phát tâm bồ đề, hành đạo bồ tát. Lại nguyện phóng sinh đệ tử ____, ba chướng sạch trừ, phước tuệ càng tăng, ba học thêm sáng, hạnh nguyện vững chải, thường xuyên nghĩ nhớ cứu giúp chúng sinh, hết báo thân này được sinh An dưỡng, rộng độ hữu tình cùng chứng bồ đề.
Niệm Phật:
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới, đại từ đại bi A Di Đà Phật. (3 lần)
Nam mô A Di Đà Phật. (Tùy niệm, chẳng kể số lần. Phóng sanh)
Hồi hướng:
Phóng sinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước đều hồi hướng
Khắp nguyện hữu tình mắc trầm luân
Mau sanh cõi Phật Vô Lượng Quang.
Mười phương ba đời tất cả Phật
Chư tôn Bồ tát ma ha tát
Ma ha bát nhã ba la mật.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo.



Thiện Quang dịch theo nghi Phóng sanh của Phật giáo Trung Hoa
10.01.2010
26/11/Kỷ Sửu



[1] H.T Huyền Quang dịch.
[2] H.T Trí Quang dịch.
[3] Kinh Kim Quang Minh ghi: “Đám cá ăn no rồi, ông (trưởng giả tử Lưu Thủy) lại nghĩ, ngày nay ta cho đám cá này thực phẩm, nguyện đời sau ta cho đám cá này pháp thực. Lại nghĩ, ngày trước, nơi khu rừng trống vắng, ta đã thấy một vị Bí sô đọc tụng kinh đại thừa, nói về cái pháp sâu xa là mười hai duyên khởi. Kinh ấy lại nói, chúng sinh sắp chết mà nghe danh hiệu đức Bảo kế như lai thì được sinh chư thiên. Ta nay nên vì mười ngàn cá này mà nói mười hai duyên khởi sâu xa, lại niệm cho chúng hồng danh đức Bảo kế như lai. Nhưng người đại lục Thiệm bộ có hai loại, có loại thâm tín đại thừa, có loại phỉ báng không tin. Ta cũng nên phát sinh và tăng trưởng tín tâm cho loại này. Ông nghĩ ta nên vào trong hồ nói diệu pháp cho đám cá. Nghĩ rồi, ông bước xuống nước, xướng lớn: Kính lạy đức Bảo kế như lai đã nhập niết bàn, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời. Đức Bảo kế như lai, xưa kia, khi làm việc làm bồ tát, có lời nguyện như vầy: mười phương quốc độ, bao nhiêu chúng sinh có ai sắp chết mà nghe được danh hiệu của Như lai, thì chết rồi được sinh Đao lợi”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét