Giản dị nhất là hãy loại trừ dần những gì không có ích cho ta. Rõ ràng là khi chết, phần đông những gì ta ưa thích lúc còn sống không còn giúp ích gì cho ta được nữa, ít ra là không giúp trực tiếp. Thế là của cải, gia tài mà ta đã khó khăn lắm mới gom góp được, nay sẽ hoàn toàn vô dụng. Chức vị, thanh danh, tên tuổi cũng thế... Người thân cũng không còn trực tiếp giúp ta được: cha mẹ, con cái, vợ chồng, y sĩ, bạn bè kể cả sư phụ hay đệ tử,không ai ngăn cản nổi cái chết, ngay cả những người mà ta đặt hết tin tưởng và trông cậy cả một đời
Hãy suy nghĩ một chút. Hiển nhiên là khi ta nhắm mắt lìa đời, thân và tâm vi tế sẽrời khỏi cái vỏ vật chất trước để hướng đến một nơi tái sinh khác, thì của cải và tài sản sẽ hoàn toàn vô dụng, trong ý nghĩa là ta không đem theo được gì cả.Đừng nghĩ rằng vì ta đã thành công và sung túc, ngay cả giàu có đi nữa nên ta có thể đầu thai trở lại cùng với tiền bạc của cải vật chất. Điều này không thể được. Hơn nữa, ta cũng không thể đem bất cứ ai đi theo ta, kể cả những người thân yêu nhất. Ngay cả khi ta cảm nhận được một sự ràng buộc rất mật thiết, trên phương diện tâm linh hay gì khác, với một số người nào đó, những sự ràng buộc này cũng không còn “ích lợi” nữa, trong ý nghĩa là họ không có cách nào đi theo ta một quãng đường xa hơn.Sựthật, chết nghĩa là thân và tâm vi tế phải tiếp tục con đường của mình để hướngđến một cuộc sống mới, nhưng không thể đem theo những gì mà mình đã sở hữu suốt cả cuộc đời vừa mới chấm dứt, cũng không thể dắt theo một người nào, dầu thân thiết đến đâu đi nữa. Vả lại, ngay cả cái thân thể nhờ những nghiệp lực đặc thù nào đó mà ta đã lấy được lúc phôi thai và đã sử dụng từ đầu đến cuối cuộc đời, chính cái thân thể gần gũi và trung thành với ta dường ấy, ta cũng bắt buộc phải bỏ lại sau lưng.
Nói tóm lại, tất cả những gì mà suốt đời chúng ta đã gọi là “của tôi”, đã nói là“thuộc về tôi”, “tôi có”, thì khi chết đi đều không thuộc về ta nữa, mà sẽ lọt vào tay những chủ nhân khác, cũng một cách tạm bợ không kém. Điều này áp dụng cho tất cả: tiền bạc, quần áo, nhà cửa, và ngay cả thân thể – thi thể – không còn là của ta, mà sẽ thuộc về những người ở lại, những người thừa kế của ta v.v... Và rồi có một ngày, họ cũng sẽ phải trải qua cảnh huống ấy.
Thếthì tất cả những của cải vật chất mà ta sở hữu trong suốt một đời, ta đều phảiđể lại khi chết đi, và chúng qua tay người khác. Còn đối với người thân, những người gần gũi nhất – cha mẹ, con cái v.v... – thì chết có nghĩa là phân ly với họ, vĩnh viễn. Ta sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa. Nói thế không có nghĩa là chúng ta sẽ không gặp lại họ trong những kiếp tái sinh, nhưng chắc chắn là sẽkhông như trước nữa. Phải, chúng ta có thể gặp lại họ, nhưng trong những bối cảnh hoàn toàn khác biệt, trong ấy mỗi người sẽ có một địa vị không giống chút nào với những quan hệ mà ta đã đan kết trong kiếp sống này, những quan hệ mà ta hằng tha thiết.
Đểdiễn tả tất cả những cảnh phân ly và nhấn mạnh tính chất vĩnh cửu của chúng,đức Phật đã dùng đến đủ loại thí dụ minh họa, nhất là trong kinh Phổ Diệu, Đức Phật đã gợi đến cảnh lá rụng mùa thu. Khi trời trở lạnh và gió thổi mạnh, những chiếc lá trong tán lá hài hòa của ngọn cây bắt đầu rơi xuống và bay tán loạn theo cơn gió lốc. Sau đó, việc cố nhặt chúng về và gắn trở lại lên những cành cây xưa kia để hồi phục tán lá cũ là một công việc vô ích, không thể làm được.
Những chiếc lá cây một khi phân tán thì vĩnh viễn không tụ họp được với nhau nữa, giống như những cuộc phân ly sau cái chết, không thể vãn hồi được. Đức Phật dạy rằng không ai có thể phục hồi những hoàn cảnh y như trước. Ngài cũng lấy thí dụcủa một dòng nước chảy, nó chảy xuống phía dưới và không bao giờ, không bao giờchảy ngược về nguồn.
Vậy thì điều gì có thể có ích lúc ta chết? Để nhận thấy được, ta phải bắt đầu bằng kiểm nghiệm xem ta có thể mang gì theo khi chết đi. Theo Phật giáo, khi ta lìa một cuộc đời để hướng đến một kiếp tái sinh khác, ta chỉ có thể vỏn vẹn mang theo những gì đã tiêm nhiễm trong tâm, hay chính xác hơn, trong dòng tâm thức. Cái gì đã lắng đọng xuống trong dòng tâm thức? Cũng theo Phật giáo, đó là những“dấu ấn”, hay cũng gọi là những “tiềm năng”. Mỗi khi ta tác động lên một trong 3 bình diện thân, khẩu, ý là ta để lại trong tâm một dấu vết, một năng lượng hay một tiềm năng. Và ta chỉ có thể tác động theo hai phương cách: một là xấu, hai là tốt. Kết quả là những tiềm năng mà chúng ta tích tập theo thời gian có thể hoặc tốt hoặc xấu, tùy theo những hành vi phát khởi ra chúng: nếu mang lại lợi ích thì là thiện, ngược lại nếu tệ hại thì là ác.
Nói thế thì điều gì có lợi cho ta khi ta chết? Chúng ta sẽ mang theo, dầu muốn dầu không, tất cả những tiềm năng mà chúng ta đã tàng trữ. Lẽ dĩ nhiên những tiềm năng xấu không thể giúp ích cho ta. Ngược lại, chúng còn gây hại cho ta. Vậy thì cái gì còn lại để ta có thể nhờ cậy vào? Chỉ có những tiềm năng tốt mà thôi. Nếu trong suốt cuộc đời vừa qua chúng ta đã thường xuyên và mạnh mẽ thực hiện những hành vi tốt, chính đáng và vị tha, thì các tiềm năng phát sinh sẽ đi theo chúng ta và rất có lợi cho chúng ta. Chỉ có những hành vi này mà thôi. Ngoài ra, không có gì khác!
Chúng ta chia cuộc đời này thành hai mảng là sự sống và cái chết. Sự chia chẻ này làm cho chúng ta sợ hãi hoang mang. Để TQ kể cho bạn nghe một câu chuyện về "sự thật của cuộc đời":
Có một lần Phật đến Alavi, nói về sự vô thường của sinh mạng. Ngài kết thúc bằng lời khuyên như vầy, "Xin mọi người hãy vận dụng chánh niệm mà quan sát cái chết: chết thì chắc chắn mà sống thì không chắc. Ai cũng phải đối mặt với cái chết. Thế nhưng, ví dụ đối mặt với kẻ thù hay ác thú mà người có khí giới thì không bó tay; cũng là như vậy, đối mặt với cái chết mà người có chánh niệm thì sinh thế giới yên lành".
Có 4 câu hỏi và trả lời: 1. Bạn từ đâu đến thế giới này? - Không biết đời trước của mình là gì; 2. Đời sau bạn sinh về đâu? - Không biết đời sau của mình như thế nào; 3. Bạn có biết hay không biết rằng bạn sẽ chết? - Tôi biết chắc rằng ai (tôi) rồi cũng sẽ chết bằng cách này hay cách khác; 4. Bạn có biết lúc nào bạn sẽ chết không? - Tôi không chắc là tôi sẽ chết khi nào (: chết trẻ, chết già, chết bịnh, chết vì tai nạn ...)
"Chết thì chắc mà sống thì không chắc", như ngài Qui Sơn có dạy về sự vô thường của đời sống: "Vô thường già bịnh không hẹn với ai cả. Sớm còn (sống) tối mất (chết), trong một sát na (thời gian ngắn hơn 1 giây) đã qua đời khác. Khác nào sương mùa xuân, móc buổi sớm, chốt lát đã không; cây bên bờ, dây trong giếng, đâu được lâu bền. Như ý nghĩ này nối tiếp ý nghĩ khác, chuyền biến cực kỳ mau chóng, nên trong một sát na, chuyển hơi thở đã là đời sau. Như vậy tại sao vẫn an nhiên để đời mình trôi đi một cách vô ích ?" (mà không chịu tu mau kẻo trễ)
"Đối mặt với cái chết mà người có chánh niệm sẽ sinh thế giới yên lành". Chánh niệm là tâm không lăn xăn lộn xộn, là đánh đổ những vọng niệm, tạp niệm như: chết là hết, tôi sắp sửa mất tất cả, danh vọng, địa vị, tiền của, người thân; ôi tôi chưa làm xong việc này việc kia, không biết ai có thể gánh vác việc của tôi?; khổ cho con tôi, chúng nó còn nhỏ dại quá, liệu chúng nó có tự lo được không? Chao ôi, tôi sắp lìa xa người tôi thương nhất rồi, phải chi tôi không mắc cái chứng bịnh quái quỉ này v.v... Câu hỏi đặt ra, làm sao tẩy trừ những ý niệm khởi lên trước khi chết, làm sao cho mình ra đi thanh thảnh không chút bám víu mà bám víu chừng nào thì nỗi sợ hãi tăng thêm chừng đó, làm sao để tôi không sợ chết. Chết là chắc chắn nhưng khi bạn sợ chết là vì "cái tôi" lúc nào cũng xâm chiếm trong tư tưởng của bạn. Tôi biết mọi sự đều có kết thúc nhưng trong sâu thẳm của tâm thức, tôi không chấp nhận kết thúc, tôi lúc nào cũng tự tạo cho mình một niềm tin "bất tử", tôi không muốn cuộc đời tôi chấm dứt khi mà tôi đang cảm nhận, tôi hiểu biết, tôi sở hữu tất cả những gì quanh tôi. Dù bạn biết rằng ai rồi cũng chết, dù bạn tin là có kiếp sau, nhưng bạn vẫn không sao thoát khỏi sợ hãi. Làm sao thoát khỏi sợ hãi, bạn phải quán chiếu thân tâm của bạn đề thấy rằng chúng chỉ là một hợp thể của sắc và tâm. Nói sắc là của tôi thì sao nhìn vào gương ngày càng thấy già, mình không là mình của ngày hôm qua. Nhìn vào tâm thì là một dòng ý niệm chuyển biến không ngừng như một dòng thác đổ, tôi khi vầy khi khác. Bạn cần phải hiểu đạo lý sinh diệt: sinh là biểu hiện, diệt là kết thúc; sự kết thúc của giai đoạn này là sự biểu hiện của giai đoạn tiếp theo; như vậy, sinh là diệt, diệt là sinh; sinh không thật sinh, nên nói bất sinh, diệt không thật diệt, nên nói bất diệt. Đức Phật là bậc bất sinh bất diệt là vậy. Sinh diệt chuyển biến là một sự thật của vũ trụ: 1. sát na vô thường: chuyển biến trong từng sát na (tế bào, ý niệm); 2. Tương tục vô thường: chuyển biến trong từng giai đoạn, còn gọi là sanh trụ dị diệt của vũ trụ, là sinh già bịnh chết của con người. Bạn để ý chữ tương tục, nghĩa là tiếp nối không dứt, vậy thì chết là tiếp nối của sự sống mới, khác, tốt đẹp hơn, nếu ngay trong đời này bạn biết tu tập như làm phước, bố thí, phóng sinh, thương người, hơn nữa còn biết niệm Phật cầu sinh cõi nước Cực lạc thì lo gì sự sống chết đến đi. Qui khứ lai hề qui khứ lai ... thế thôi.
Có một lần Phật đến Alavi, nói về sự vô thường của sinh mạng. Ngài kết thúc bằng lời khuyên như vầy, "Xin mọi người hãy vận dụng chánh niệm mà quan sát cái chết: chết thì chắc chắn mà sống thì không chắc. Ai cũng phải đối mặt với cái chết. Thế nhưng, ví dụ đối mặt với kẻ thù hay ác thú mà người có khí giới thì không bó tay; cũng là như vậy, đối mặt với cái chết mà người có chánh niệm thì sinh thế giới yên lành".
Có 4 câu hỏi và trả lời: 1. Bạn từ đâu đến thế giới này? - Không biết đời trước của mình là gì; 2. Đời sau bạn sinh về đâu? - Không biết đời sau của mình như thế nào; 3. Bạn có biết hay không biết rằng bạn sẽ chết? - Tôi biết chắc rằng ai (tôi) rồi cũng sẽ chết bằng cách này hay cách khác; 4. Bạn có biết lúc nào bạn sẽ chết không? - Tôi không chắc là tôi sẽ chết khi nào (: chết trẻ, chết già, chết bịnh, chết vì tai nạn ...)
"Chết thì chắc mà sống thì không chắc", như ngài Qui Sơn có dạy về sự vô thường của đời sống: "Vô thường già bịnh không hẹn với ai cả. Sớm còn (sống) tối mất (chết), trong một sát na (thời gian ngắn hơn 1 giây) đã qua đời khác. Khác nào sương mùa xuân, móc buổi sớm, chốt lát đã không; cây bên bờ, dây trong giếng, đâu được lâu bền. Như ý nghĩ này nối tiếp ý nghĩ khác, chuyền biến cực kỳ mau chóng, nên trong một sát na, chuyển hơi thở đã là đời sau. Như vậy tại sao vẫn an nhiên để đời mình trôi đi một cách vô ích ?" (mà không chịu tu mau kẻo trễ)
"Đối mặt với cái chết mà người có chánh niệm sẽ sinh thế giới yên lành". Chánh niệm là tâm không lăn xăn lộn xộn, là đánh đổ những vọng niệm, tạp niệm như: chết là hết, tôi sắp sửa mất tất cả, danh vọng, địa vị, tiền của, người thân; ôi tôi chưa làm xong việc này việc kia, không biết ai có thể gánh vác việc của tôi?; khổ cho con tôi, chúng nó còn nhỏ dại quá, liệu chúng nó có tự lo được không? Chao ôi, tôi sắp lìa xa người tôi thương nhất rồi, phải chi tôi không mắc cái chứng bịnh quái quỉ này v.v... Câu hỏi đặt ra, làm sao tẩy trừ những ý niệm khởi lên trước khi chết, làm sao cho mình ra đi thanh thảnh không chút bám víu mà bám víu chừng nào thì nỗi sợ hãi tăng thêm chừng đó, làm sao để tôi không sợ chết. Chết là chắc chắn nhưng khi bạn sợ chết là vì "cái tôi" lúc nào cũng xâm chiếm trong tư tưởng của bạn. Tôi biết mọi sự đều có kết thúc nhưng trong sâu thẳm của tâm thức, tôi không chấp nhận kết thúc, tôi lúc nào cũng tự tạo cho mình một niềm tin "bất tử", tôi không muốn cuộc đời tôi chấm dứt khi mà tôi đang cảm nhận, tôi hiểu biết, tôi sở hữu tất cả những gì quanh tôi. Dù bạn biết rằng ai rồi cũng chết, dù bạn tin là có kiếp sau, nhưng bạn vẫn không sao thoát khỏi sợ hãi. Làm sao thoát khỏi sợ hãi, bạn phải quán chiếu thân tâm của bạn đề thấy rằng chúng chỉ là một hợp thể của sắc và tâm. Nói sắc là của tôi thì sao nhìn vào gương ngày càng thấy già, mình không là mình của ngày hôm qua. Nhìn vào tâm thì là một dòng ý niệm chuyển biến không ngừng như một dòng thác đổ, tôi khi vầy khi khác. Bạn cần phải hiểu đạo lý sinh diệt: sinh là biểu hiện, diệt là kết thúc; sự kết thúc của giai đoạn này là sự biểu hiện của giai đoạn tiếp theo; như vậy, sinh là diệt, diệt là sinh; sinh không thật sinh, nên nói bất sinh, diệt không thật diệt, nên nói bất diệt. Đức Phật là bậc bất sinh bất diệt là vậy. Sinh diệt chuyển biến là một sự thật của vũ trụ: 1. sát na vô thường: chuyển biến trong từng sát na (tế bào, ý niệm); 2. Tương tục vô thường: chuyển biến trong từng giai đoạn, còn gọi là sanh trụ dị diệt của vũ trụ, là sinh già bịnh chết của con người. Bạn để ý chữ tương tục, nghĩa là tiếp nối không dứt, vậy thì chết là tiếp nối của sự sống mới, khác, tốt đẹp hơn, nếu ngay trong đời này bạn biết tu tập như làm phước, bố thí, phóng sinh, thương người, hơn nữa còn biết niệm Phật cầu sinh cõi nước Cực lạc thì lo gì sự sống chết đến đi. Qui khứ lai hề qui khứ lai ... thế thôi.
Có 3 tánh là thiện, ác và vô ký. Trong tánh vô ký (trung tánh) lại chia làm 2 loại là: hữu phú vô ký (trung tánh mà có ô nhiễm) và vô phú vô ký (trung tánh mà không có ô nhiễm). Thức thứ bảy, Mạt na, tương ưng với tánh hữu phú vô ký, vì chấp thức A lại da làm tự ngã và không có lúc nào mà không chấp. Trong sự chấp ngã còn có ngã si, ngã kiến, ngã mạn và ngã ái. Ngã nhưvậy thì không dễ diệt trừ; mà không trừ được thì vẫn còn luân hồi sinh tử. Do vậy, như cái cây nghiêng theo chiều gió, con người sẽ tái sinh tùy theo nghiệp lực của mình: "Vì nghiệp lực thắt buộc mà có thân thể, thì chưa ai thoát khỏi cái lụy của hình hài". Thắt buộc là nghiệp huân tập. Trong đời sống hiện tại mình huân tập gì thì mình sẽ là cái đó trong hiện tại và trong tương lai.
Huống chi xét theo 12 chi phần duyên khởi thì vô minh dẫn đầu và ái (dục ái, hữu ái và diệt ái: khao khát tìm cầu khoái lạc, khao khát hiệu hữu trở thành, khao khát không hiện hữu) chính là nguyên nhân trực tiếp và rõ rệt nhất phát sinh ra khổ và luân hồi. Bao giờ diệt trừ được ngã và ái thì mới mong hết tái sinh. Chánh niệm là rõ biết, ý thức về thân, thọ, tâm và pháp; là đánh đổ vọng niệm, tạp niệm. Chánh niệm có nhiều cấp bậc và phải tu tập mới có. Như hành giả đi vào tam thiền mà còn "thường sống trong chánh niệm".
Khái niệm giả lập tức giả danh có 2 nghĩa: 1. Về danh: các pháp vốn vô danh, do người giả trao cái danh, do vậy tất cả danh ngôn đều là hư giả không thật, không khế hợp thật thể; 2. Về pháp: các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, không có thật thể, vì vậy không tự sai biệt. Dựa vào giả danh mà có pháp sai biệt, lìa danh thì không có pháp sai biệt. Thật tướng của các pháp thì siêu việt giả danh, khái niệm đối lập, nhị biên, là "đường ngôn ngữ bặt, chỗ tâm hành dứt".
Đi trên con đường trung đạo: không sinh không diệt, không thiện không ác, không dơ không sạch, không tăng không giảm, không một không nhiều ... thì phải có trí tuệ bát nhã, mà muốn được như vậy phải tu nhiều đời nhiều kiếp sáu pháp ba la mật, huân tập dồn chứa hai khối phước trí, chuyển hóa tám thức thành bốn trí. Nhưng, than ôi, mình còn phàm phu, ngày nào mà không phân biệt, không khởi ý niệm thiện, ác, vô ký. Đúng như bác nói, "sống hãy chánh niệm, huân tập những gì yên lành" thì khi chết sẽ yên lành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét